mercredi 15 août 2007

BUỔI HỌP CUỐI CÙNG QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN VNCH

BUỔI HỌP CUỐI CÙNG QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN VNCH
Trần Đính Ngọc

... Sau khi Dân Biểu Cộng Sản nằm vùng Lý quý Chung, một đệ tử thân tín và trung thành của tướng Dương văn Minh, vào buổi họp chót của Quốc Hội Lưỡng Viện VNCH, tức là vài ngày sau cùng của Miền Nam VN thân yêu còn trong tay người Quốc gia, Lý quý Chung, với định kiến và đã bàn với Dương văn Minh, Vũ văn Mẫu cũng như chịu lệnh của Thích Trí Quang, y đã “tả xông hữu đột”, hết sức thuyết phục Quốc hội Lưỡng viện VNCH trao quyền Tổng Thống cho Dương văn Minh, càng sớm càng tốt.


Lý quý Chung đã viện dẫn nhiều lí do, đưa ra những lời cam kết long trọng rằng chỉ có Đại tướng Dương văn Minh mới cứu vãn được tình thế đã quá suy sụp này. Y tha thiết xin Quốc Hội sớm trao quyền TT cho Đại tướng Dương văn Minh kẻo nguy ngập lắm rồi. Hơn nữa, trong cuộc trao đổi ở giữa cuộc họp chính, bởi vì không khí căng thẳng quá, các Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ Viện, các trưởng Khối của Quốc Hội được hội ý với các Đại sứ như Pháp, Mỹ, Canada v.v... theo đó Cộng hòa miền Nam VN được bắn tin rằng Hà Nội có thể nói chuyện với Chính Phủ Dương văn Minh (một ngón đòn của Hà Nội, ghi chú của người viết) và còn đưa ra kì hạn là 12 giờ đêm nay nếu Hà Nội không nhận được tin QH/VNCH trao quyền cho Dương văn Minh thì chúng sẽ gủi vào 10,000 đạn pháo 122 ly cho dân Sàigòn. Vì thế đêm đó, 27-4-1975, lúc hơn 10giờ, Quốc Hội đã bỏ phiếu thỏa thuận Đề luật đó bởi chẳng còn con đường nào khác.


Tôi đã dự một phiên họp Quốc Hội vô cùng gay cấn, căng thẳng thần kinh, bàng hoàng nghĩ rằng miền Nam đã đến ngày tận số, còn ai có cây đũa thần biến đổi tình hình miền Nam này được và tôi ngồi đây, cũng chỉ là để chứng kiến một cuộc bức tử thảm thiết (trong đó tôi cũng là một thành phần); cái thòng lọng đã treo lơ lửng trên đầu tội nhân “vô tội”, ngực gắn mảnh giấy ghi 4 chữ đỏ trên nền vàng: “Việt Nam Cộng Hòa” sau 21 năm kiên cường chống Cộng sản, bọn người với dã tâm xích hóa toàn vùng Đông Nam Á.


Ông TT Nguyễn văn Thiệu đã xin rút khỏi chức vị TT để trở về với Quân Đội đặng có thêm “một tay súng”(!) cho Quân Đội, trao quyền cho cụ Trần văn Hương.


Cụ Trần văn Hương già yếu, vốn xưa nay chỉ là nhà giáo, nhờ cụ dạy và làm gương về đạo đức và thanh liêm hoặc hành chánh thì được nhưng nhờ cụ đánh đông dẹp bắc, an định tình thế, chỉ huy tướng lãnh trong lúc hỗn loạn như thế này thì quả là “đưa người yếu đi đánh vật và chỉ trao quyền lấy được”. Cụ không muốn nhận là phải bởi cụ có biết gì về quân sự!


Và đến bây giờ là Dương văn Minh!

Tôi nhớ bữa đó có một số DB, NS vắng mặt, vắng mặt nhiều nhất trong những phiên họp QH Lưỡng viện từ ngày tôi vào Quốc Hội. Tôi thông cảm, ai cũng tìm đường sống nhưng còn nhiệm vụ nặng nề thì bỏ cho ai đây? Chẳng lẽ chỉ làm DB, NS những lúc thanh bình, được ăn trên ngồi trốc, sung sướng bản thân và gia đình còn lúc quốc biến thì nhanh chân chuồn, trước tất cả mọi người? Lương tân kẻ sĩ không cho phép ta làm điều đó!

Bởi thế sau này, cuối năm 1985, khi cả gia đình tôi được đoàn tụ ở Hoa Kỳ, sau khi đã mất hết tài sản một đời làm việc, dành dụm vì cho con vượt biển, băng rừng, nhà tôi cứ trách tôi rằng chính vì tôi bỏ mấy chiếc tầu đánh cá ở Bến Đá Vũng Tàu về họp QH Lưỡng viện bữa đó mà suýt nữa cả gia đình tiêu tan và suýt nữa tôi đi tù cải tạo không có ngày về, có khi đã chết.

Tôi nhớ, đang cuộc họp này, cuộc họp QH Lưỡng Viện ngày 27-4-1975, một Cảnh lại trình lên bà Nguyễn thị Hai, Đệ nhị Phó chủ tịch HNV, lúc đó bà đang ngồi trên bàn Chủ tọa, báo rằng bà có một cú điện thoại cần. Sau khi nghe ĐT, bà Hai bỏ đi một nước không trở lại họp nữa. Sau này được biết rằng, máy bay đang đợi bà trong Tân Sơn Nhất, họp chẳng họp thì đừng!

Chiến lược bỏ miền Trung của TT Nguyễn văn Thiệu sai lầm ngay từ đầu nên ngày nay tướng Ngô quang Trưởng, Tư lệnh Vùng I Chiến thuật còn phàn nàn, một cuộc rút lui vô tổ chức khiến hại người, hại của và cũng vì chạy vô trật tự như thế, Cộng quân đã được đà đánh đuổi quân dân ta. Người dân chạy tán loạn trên đường, leo lên xà lan, lên tầu, Cộng quân pháo theo chết như rạ thây rớt xuống biển, xuống sông, thây nằm đầy đường, máu me cùng khắp, thực chưa có một chiến trận nào thảm khốc bằng.


Từ cuộc tháo chạy ở miền Trung ấy, quân, dân miền Nam đã mất nhuệ khí, điều rất cần trong khi đánh giặc, nhiều đơn vị chạy vào đến Sàigòn thì quân số đã hao hụt, tán lạc quá nửa, không còn tập trung lại được mà cũng chẳng có ai đứng ra làm việc ấy. Qua ngày 28, tướng tá đã đi khá nhiều; Thiệu, Khiêm, Kỳ, Cao văn Viên, Thủ tướng Nguyễn bá Cẩn v.v...có lẽ đang ung dung ở ngoại quốc bởi những anh này dư phương tiện. Chỉ dân đen với chức quyền không phương tiện là khốn khổ!


Dù có biết sách lược triệt thoái miền Trung là sai, tất cả đã quá trễ. Người ta bảo TT Nguyễn văn Thiệu tính “tháu cáy” Mỹ, để Mỹ sớm gửi quân viện cho miền Nam (vì không quân viện là phải chết) nhưng Mỹ đã có chương trình riêng của Mỹ, Mỹ “don’t care”. Ông Thiệu có nói một câu đáng cho ta suy nghĩ: “Làm kẻ thù của Mỹ dễ hơn là làm đồng minh với Mỹ”.(Liệu ngày nay, Mỹ có thể dùng Việt cộng như cái lá chắn Trung cộng được không?)


Thực vậy, điều vô cùng quan trọng và là chìa khóa của ván bài: Chính phủ Mỹ, do tiến sĩ giấy Henry Kissinger thao tác, đã đi đêm với Nga-Tàu, mặc cả, đổi chác, quyết lòng dâng miền Nam cho CS quốc tế (mà Việt gian CS chỉ là tay sai, được CS quốc tế cho phép quản lí) để đổi lấy một cái gì đó chỉ họ biết với nhau; thí dụ để đổi lấy an toàn cho Đài loan, hay dồn tiềm lực lo cho Do Thái (nước mẹ của Kissinger) đang bị nhiều áp lực từ khối Hồi giáo ở Trung đông v.v... (Đã đến nước đó thì VNCH mạnh mấy cũng phải qui hàng. Tương tự, nếu Việt gian CS cũng bị quốc tế CS hi sinh để đổi chác với Hoa Kỳ thì Hà Nội sẽ có rừng cờ vàng ba sọc đỏ ngay. Bởi thế, những anh cán ngố chớ nên kiêu căng, tự phụ!)


Kể từ sau khi QH bỏ phiếu “Thuận”, trao quyền TT cho Dương văn Minh đêm đó, Bộ Tham Mưu của Dương văn Minh rất hồ hởi phấn khởi, anh nào cũng đinh ninh là mình sẽ có một ghế Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng; tép riu cũng Tổng Giám đốc, Giám đốc...những anh tự nhận thành phần thứ ba, ở trong nước và từ Pháp, từ Mỹ về cũng hi vọng tràn trề; còn Vũ văn Mẫu, con đẻ của Ấn Quang, một tên Việt gian xuẩn động ăn cơm QG thờ ma CS thì nắm chắc cái ghế Thủ tướng. Những anh há họng chờ sung này nghĩ rằng cuộc đời sẽ đẹp như mơ!


Nhưng ở đời, thấy vậy mà không phải vậy!

TỰ DO HAY LÀ CHẾT

Buổi họp Quốc hội Lưỡng viện hôm đó, với cá nhân tôi, cũng là buổi họp Quốc Hội cuối cùng trong 4 năm Dân Biểu Hạ Nghị Viện (1971-1975) vì như đã trình bày, tôi biết chắc chắn Sàigòn sẽ mất đến nơi, tự nhủ lòng bằng bất cứ giá nào, tôi phải tìm đường ra ngoại quốc dù có để lại tài sản hàng nghìn tỉ đô-la (tôi không có, nhưng giả sử có) cũng không hề tiếc xót. Khi tôi mới hơn chục tuổi đầu, bố tôi đã căn dặn tôi không được đi theo, sống với Vẹm vì Hồ là một tay Việt gian hung ác cực kì, không thể tin được. Bố tôi đã gia nhập VNQDĐ, đã du học Tàu và Nhật thới Đông kinh Nghĩa thục của các cụ Phan bội Châu và Phan chu Trinh, và chắc chắn là bố tôi đã quá rõ về ông Hồ chí Minh. Bố tôi đã bị Pháp và Việt Minh bắt giam nhiều lần rồi thả.


Vì thế, với tôi, tâm tâm niệm niệm lời bố tôi nói, sống nghèo, thanh đạm, đủ ăn cũng được nhưng có tự do bởi tự do quí như sinh mạng con người. Sống mà không có tự do, thà chết sướng hơn như nhà tư tưởng Hoa Kỳ, Franklin, đã nói:”Give me Liberty or give me death” (Cho tôi tự do hay là giết tôi đi). Giầu có, tiền nhiều thóc dư mà sống trong nhà tù (dù lớn là cả nước như VN hiện nay, hay nhỏ là trại giam) thì cuộc sống cũng vô nghĩa.


Tân đệ nhất phu nhân Pháp, bà Cecilia Sarkozy, nói với báo chí khi TT Nicolas Sarkozy mới đắc cử tháng 6-2007, là bà không thích hợp với vai trò đệ nhất phu nhân (tù túng) ở điện Elysée mà bà thích mặc chiếc quần jean, cái áo thung đi bát phố, muốn tấp vào đâu coi, ăn quà, xem ciné cũng được, không ai nhòm ngó, không ai phiền hà. Đó chính là tự do.


Còn công nương Diana, hoàng gia Anh, lúc sinh thời cũng cùng một ý nghĩ y như Cecilia Sarkozy. Ấy là hai phụ nữ trẻ này đang sống trong hoàng cung, sung sướng bậc nhất, muốn gì được nấy mà vì nghi lễ bó buộc của phủ tổng thống, của hoàng tộc, hai bà đã phải thốt ra như thế. Đủ biết tự do quan trọng cho đời sống như thế nào!


LM Nguyễn văn Lý, người anh hùng của dân tộc VN đã tuyên bố ở giáo xứ Nguyệt Biều trước khi bị công an CS bắt:


“Tự Do tôn giáo hay là chết”


Sau này, LM Nguyễn văn Lý không chỉ tranh đấu cho Tự do tôn giáo mà cho các quyền tự do của đồng bào VN: Tự do ngôn luận, tự do ra báo, tự do hội họp, lập đảng chính trị, tự do ứng cử, bầu cử, tự do đi lại v.v...Những quyền tự do ấy không một công dân nào không cần và theo Công pháp quốc tế, không một quyền lực nào có thể xâm phạm hay triệt tiêu chúng khỏi con người.


Hồ tặc và bọn thủ hạ Việt gian chưa hề bị mất tự do nên không biết nó khổ như thế nào nên chúng cứ ngang nhiên đày đọa, ngược đãi người dân, bỏ tù cùm kẹp người dân tàn ác hơn những kẻ độc ác đày đọa những con thú, chà đạp lên sự đau thương thống khổ của đồng bào.

Lí do tôi có tầu vượt biển cho cả gia đình thật giản dị. Tôi quen vợ chồng anh chị Nguyễn văn T. làm nghề ngư phủ ở Bến Đá, Vũng Tàu, những người ít học nhưng chân chất thật thà, CG ngoan đạo. Tôi biết anh T. từ khi ra Vũng Tàu (dăm năm trước 1975) để sinh hoạt với các cháu thiếu nhi trong một giáo xứ CG mà chị T. là đoàn trưởng thiếu nhi, còn tôi là hướng dẫn viên và bảo trợ viên. cho các cháu.


Nhiều lần, tôi và các thiếu nhi, có những anh, chị lớn, đốt lửa trại, ca hát, diễn kịch, học hỏi giáo lí và những điều hữu ích v.v...thật vui và bổ ích. Lần nào ra Vũng Tàu tôi cũng ngủ đêm tại nhà anh chị T., gặp lúc tầu đánh cá của anh chị từ biển về, tôm, cá, sò, ốc ê hề, tôi tổ chức cho các thiếu nhi cùng ăn bữa tối với nhau trước khi đốt lửa trại. Cả đoàn sinh hoạt rất vui vẻ và bổ ích.


PHẢI RA ĐI DÙ SỐNG HAY CHẾT


Đại gia đình anh chị T. (gồm cha mẹ, ông bà, anh, chị em, hiện nay đang ở Hoa Kỳ) có tất cả 5 chiếc tầu đánh cá, hai cái mới tinh, lớn, tốt có thể lênh đênh trên biển hàng vài tháng vẫn có đủ dầu để chạy và thức ăn, nước uống cho nhiều người. Ba cái kia nhỏ hơn nhưng vẫn ra khơi đánh cá cả tuần mới về, mỗi cái chở được cả trăm người.


Bữa đó, tôi có việc ra Vũng Tàu và nhân tiện ghé anh chị T. Tôi nói với anh T. tình hình quân sự với áp lực nặng nề của Cộng quân và lo rằng có thể phải di tản. Anh chị T. mời tôi và gia đình xuống tầu đi với anh chị nếu tình thế quá nguy hiểm. Anh nói đại gia đình có 5 chiếc tầu đánh cá, tôi muốn lên tầu nào cũng được, có thể đi tới Guam, Phi luật tân, Indonesia v.v.... Anh nói sang ngoại quốc, vì anh không biết tiếng Anh, anh nhờ tôi giúp anh chị vấn đề thông dịch, hoặc điền giấy tờ, kiếm việc làm v.v... Được anh chị đồng ý, sau đó tôi đã rủ thêm hai người bạn thiết của tôi, gia đình anh A và gia đình anh T. ở ông Tạ cùng xin đi tầu với anh chị T. Ba người chúng tôi đã đưa cho anh T. hơn 3 triệu đồng, dư dả để mua xăng, dầu thực phẩm và nước uống. Mọi việc sắp xếp xong vào đầu tháng 4-1975 chỉ còn chờ tình hình “biến chuyển mạnh” là ra khơi.


Giữa tháng 4-75, e con đường Vũng Tàu sẽ bị nghẽn vì chiến cuộc, tôi và hai anh bạn A và T đã đưa gia đình ra trú ngụ tại nhà anh T. để chờ ngày lên đường. Khoảng ngày 24 hay 25 gì đó, chúng tôi nghe được lời thông báo trên radio là mời các DB, NS về họp Quốc Hội Lưỡng viện, việc rất quan trọng.


Sau khi nghe nhiều lần nhắc đi nhắc lại, tôi tự nghĩ mình phải về làm nhiệm vụ của DB do cử tri đã trao phó cho mình. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này, dân chúng tản lạc hết, chạy trốn hết mà mình cũng bỏ nhiệm sở thì thực thiếu sót. Sau khi suy nghĩ kĩ, tôi dăn gia đình cứ ở lại đó, khi nào gia đình anh chị T. xuống tầu ra khơi thì đi với gia đình anh chị ấy. Họ sống mình sống, họ chết mình chết. Còn phần tôi, tôi phải về Sàigòn họp Quốc hội, sau đó nếu có chuyện gì tôi cũng sẽ tìm đường đi, một mình tôi xoay xở vẫn dễ hơn là có cả gia đình vì các con đa số còn nhỏ.


Dân dò xong, tôi lái chiếc xe LaĐàlạt về Sàigòn. Nhưng khi tôi mới về đến nhà được vài giờ, đang liên lạc với văn phòng HNV thì nhà tôi đưa các cháu về. Hỏi tại sao về? Nhà tôi nói sợ ra ngoại quốc mà tôi bị kẹt lại thì biết xoay xở làm sao ở ngoại quốc. Chết một đống hơn sống một người. Thôi thế là hỏng hết! Tôi than thấm và chính vì thế mà gia đình tôi bị kẹt lại đến 6 năm sau cho những đứa con và gần 11 năm sau nhà tôi với cô con gái áp út mới được đoàn tụ với tôi ở Hoa Kỳ qua diện đoàn tụ.


Dầu sao, Ơn Trên vẫn còn phù hộ gia đình tôi. Của cải bị mất hết vì nhiều chuyến bị lừa vì vượt biển nhưng người thì qua khỏi hết, không bị chết trên biển hoặc trong rừng già biên giới Miên-Việt mà hơn nửa triệu người là nạn nhân. Điều đó tôi nghĩ cũng từ mẹ tôi. Cả đời bà, bà dạy tôi và các anh chị tôi:


“Có đức mặc sức mà ăn.”

xem ra quá chí lí.

Nếu không có những may mắn đó, không biết giờ này tôi có còn được ngồi đây gõ computer mà chuyện trò với bạn đọc không, khi đã có rất nhiều anh em đồng ngũ (Khóa 13 Sinh viên SQ Trừ Bị Thủ Đức) và đồng Viện (QH) khi xưa đã bỏ mình trên các chiến trường, trong các trại tù Cộng sản, trong đường rừng và trên biển Đông!

Và tôi nghĩ, họ muốn tôi nói lên giùm họ những điều họ đã nghĩ và chưa nói ra được!


THẦY GIẾT CON RỒI !


Được biết tướng Dương văn Minh tuyên bố danh sách thành phần Chính phủ ngay sau đó, gồm:

- Đại tướng Dương văn Minh, Tổng Thống nước VNCH, Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH.

- Thủ tướng: GS Vũ văn Mẫu

- Bộ trưởng Thông tin: DB Lý quý Chung

- Bộ Trưởng Nội Vụ: Nghị sĩ Hồng sơn Đông

- Thứ trường Nội Vụ: Dân Biểu Đoàn Mại.

- Còn lại nhiều chức vụ khác nhưng người kể không nhớ.

Sau khi đã sắp xếp xong, Dương văn Minh mời tất cả Nội các và tay chân thân tín, yểm trợ viên (rất đông) đến họp ở Dinh Hoa Lan, nơi ông ta ở.

Nên nhớ rằng tình hình lúc đó quá bi đát. Việt cộng và quân ta vẫn còn quần thảo với nhau ở mặt trận Long Khánh. Các cửa ngõ vào Sàigòn đều có Việt cộng, đều có mũi tiến công của Việt cộng với nhiều Sư đoàn tinh nhuệ của Bắc việt. Tinh thần quân ta vẫn cao nhưng những tiếp tế, tiếp viện đều đã bị đứt đoạn với quân số không đủ, không còn trông mong gì nữa. Những Cố vấn Mỹ cuối cùng cũng đã đến điểm hẹn để lên phi cơ trực thăng. Dân chúng đô thành Sàigòn thì chỉ nghĩ đến chạy, người ta đã hoảng loạn cực kì vì Việt cộng sắp vào tới nơi rồi.

Người kể chuyện cho biết, sau khi đã an tọa, với định kiến, trước mặt bá quan văn võ, tức tân Nội các của Thủ tướng Vũ văn Mẫu, Dương văn Minh giáo đầu vài câu rồi bảo mọi người im lặng. Ông ta quay phôn cho Thượng tọa Thích trí Quang. Dương văn Minh nói lớn, tất cả mọi người đều nghe, và lời nói từ đầu giây kia cũng nói lớn nên ai cũng nghe rõ cuộc đối thoại:

-“Alô, Alô. Thưa có phải là thầy Trí Quang đấy không ạ?”


Đầu giây kia:

- “Phải, tôi là Thượng tọa Trí Quang đây. Ai đó?”


Đại tướng Dương văn Minh:

- “Thưa thầy, con là Dương văn Minh đây! ”

Đầu giây kia:

- “Có gì đấy Đại tướng?”

- “Thưa thầy, Quốc hội đã trao quyền Tổng Thống cho con 10 giờ đêm hôm qua và hôm nay con đã sắp xếp xong Nội các của con rồi. Con xin báo cáo thầy và con muốn xin thầy liên lạc với Chính phủ HàNội để thu xếp một cuộc ngưng bắn...”


Đầu giây kia:


- “Tôi đã giúp cho Đại tướng lật đổ Diệm, nay lại hạ bệ cả Thiệu, tù giờ phút này thì Đại tướng phải tự lo lấy...Nhiệm vụ của tôi đến đây là chấm dứt!!!”

Dương văn Minh có vẻ hốt hoảng:


- “Thưa thầy, thầy nói sao ạ?”

Thích Trí Quang:

- “Tôi nói từ giờ phút này, Đại tướng phải tư lo liệu lấy. Nhiệm vụ của tôi đến đây là chấm dứt!”

Dương văn Minh thảng thốt la to lên:


- “Thầy giết con rồi!”


Nói xong câu đó, Dương văn Minh cấm khẩu, quăng cái điện thoại, mặt tái xanh tái tử cắt không còn giọt máu. Ông ôm đầu, tỏ vẻ rất đau khổ, ngồi bất động một lúc lâu vì cú “sốc” quá nặng. Còn các tai to mặt lớn ngồi xung quanh, từ Vũ văn Mẫu trở xuống đều xanh xám mặt mày, thở dài thở vắn, không nói không rằng, tỏ vẻ vô cùng thất vọng. Không khí cuộc họp trở nên ngạt thở, tưởng là vui sướng lại hóa ra buồn lo.


Đó là cuộc họp đầu và cũng là cuộc họp cuối của Nội các Vũ văn Mẫu do Dương văn Minh lập ra.


VÀI ĐIỀU CẦN NÊU LÊN Ở ĐÂY

a- Dương văn Minh có quá nhiều tham vọng từ hồi được Tổng Thống Ngô đình Diệm cử làm Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát để diệt trừ Bảy Viễn (Bình Xuyên) mặc dù họ Dương chỉ là cái cốt khố đỏ, thiển cận và theo nhiều sĩ quan cao cấp trong Bộ TTM nói với người viết, Dương văn Minh đầu óc rất trì độn, không xứng đáng là một vị tá chứ chưa nói đến tướng.( Đại tá Nguyễn hữu Duệ có viết trong cuốn hồi ký của ông “Những ngày bên cạnh TT Ngô đình Diệm” có kể Dương văn Minh ăn chận một “sắc ma ranh” đầy tiền Đông dương và kim cương, binh sĩ tịch thu được của tên Paul, con Bảy Viễn; trong chiến dịch Rừng Sát. Dương văn Minh lấy luôn không báo cáo với TT Ngô đình Diệm nhưng TT Diệm biết được, liền cho DVM ngồi chơi xơi nước nên DVM đem lòng oán hận. Dương văn Minh trả thù anh em TT Ngô vào dịp 2-11-1963, đồng lõa với Trần thiện Khiêm)


b- Dương văn Minh trông cậy vào Thích Trí Quang, coi Trí Quang như một siêu quyền lực có thể giúp Dương văn Minh gỡ những ván cờ bí khi Minh lên làm TT/VNCH.

c- Dương văn Minh cũng nghĩ Thích Trí Quang rất có “thớ” với Hà Nội, nói gì Hà Nội cũng phải nghe. Khi Trí Quang gạt phắt về vụ xin ngưng bắn, Dương văn Minh đã quá thất vọng và cả “nội các” Vũ văn Mẫu tái mặt. Lý quý Chung hiện rõ nguyên hình gia nô CS, nhưng sau cùng thì y hối hận. Y diễn tả sự ăn năn trong cuốn hồi kí của y trước khi chết. Khi Lý quý Chung còn sống, cha của Lý quý Chung đã mắng con khi thấy con mê muội theo CS:”Mày mù hay sao mà đi làm tôi mọi cho CS? Đến nước này mà mày không nhìn ra chân tướng CS?”

Còn Vũ văn Mẫu, trí thức rởm, thiển cận không biết phải trái, hay dở không xứng danh trí thức từ khi y xuống tóc thời TT Ngô đình Diệm, lòn trôn Ấn Quang, chó hùa phản đối nhà Ngô về vụ treo cờ Phật giáo. Y cũng như nhiều tên khác, ăn cơm QG thờ ma CS, như: Lý chánh Trung, Nguyễn văn Trung, Nguyễn ngọc Lan, Vũ Hạnh, Hồ ngọc Nhuận, Ngô công Đức, Phan xuân Huy, Nguyễn văn Binh, Kiều mộng Thu, Đinh văn Đệ, Nguyện hữu Hạnh, cha hổ mang Phan khắc Từ, Trương bá Cần, Thiện Cẩm v.v... là những tên phản bội QG, lòn trôn CS để chẳng được gì, lại mất trắng cả cuộc đời với CS, không được đồng bào thương, thông cảm như BS Dương quỳnh Hoa, Nguyễn văn Trấn...


Những con người giả trá, lưu manh này cần phải lột mặt nạ cho đồng bào thấy. Phan khắc Từ có được một chút “lợi” là y vẫn làm LM, chánh xứ Vườn Xoài, vẫn dâng lễ hàng ngày, đi gặp Hồng Y Phạm minh Mẫn, nhưng y vẫn lấy vợ, đẻ con. Người CG đã tởm lợm y như một cái quái thai, một con chó ghẻ!

d- Nhìn thành phần nội các Vũ văn Mẫu, người ta thấy hầu hết là bọn xôi thịt, ham chức quyền, ham bổng lộc, không vì dân tộc đất nước gì hết mà chỉ ngóng một chiếc ghế để vơ vét, làm giầu, nhất là những chiếc ghế như Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại, Bộ trưởng Tài chánh, Thống đốc Ngân Khố QG, Tư lệnh, Giám đốc Cảnh sát...Nay nghe Trí Quang phán một câu xanh rờn: ”Nhiệm vụ tôi chấm dứt” làm nhiều anh té ngửa, lên kinh phong, cấm khẩu, bởi quá thất vọng, nhất là Lý quý Chung và Vũ văn Mẫu, hai tên Việt gian tay sai của Ấn Quang và là xung kích cho CS.

Nội các này hi vọng sẽ là thành phần thứ ba, không QG không CS, để cai trị miền Nam, ít nhất cũng làm được vài năm, lợi dụng vơ vét, sau đó ra đi đường đường chính chính nếu có thay đổi nữa chứ không phải trốn chui trốn nhủi như hiện tại (cuối tháng 4-75). Nào ngờ cả thầy lẫn tớ lọt vào cái rọ của VC, nhiều anh phải vào trại tù cải tạo, có anh chết ở trong tù.


e- Từ bên Tây, bên Anh, bên Mỹ về, nhiều chính khách “sa-lông” (xin miễn nêu tên) trước hi vọng bao nhiêu, nay vỡ mộng với Dương văn Minh bấy nhiêu vì không được mời một chức vụ gì, hụt giò hụt cẳng mà tình hình quân sự thì quá đen tối. Nhiều anh chị muốn trở lại Âu châu trốn cái lò thuốc súng Sài gòn không biết sẽ nổ tung lúc nào nhưng không kịp nữa. Chỉ còn chờ ngày trình diện VC đi tù. Thực không cái dại nào giống cái dại nào!


f- Đến lúc đó, lúc mà VC vào gần đến Sàigòn, tòa đại sứ Mỹ đã di tản, mặt trận cuối cùng ở Long Khánh với tướng Lê minh Đảo sắp kết thúc, với vài trái bom CBU mà Dương văn Minh vẫn còn như người mộng du, mơ tưởng một cuộc ngưng bắn, gọi Trí Quang giúp. Thảo nào các sĩ quan làm việc với y bảo y trì độn là rất đúng! Giả sử có CP ba thành phần, ngưng bắn thiệt mà giao miền Nam cho y thì khác nào trao cho đứa bé lẫm chẫm biết đi quả trứng gà cho nó cầm chơi!


g- Bây giờ ta hãy bình tâm ngồi nhìn hai miền Bắc và Nam VN.


Bắc do Hồ tặc và thủ hạ cai trị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin quá sắt máu, gian dối, tàn ác, lừa phỉnh khiến nhân dân đồ thán, nghèo túng, lầm than cơ cực và bị giết chóc cả mấy triệu trong hơn nửa thế kỉ, truyền thống đạo lí, văn hóa tiêu vong cùng với biển đất dâng cho ngoại bang để đổi lấy vũ khí giết anh em miền Nam....


Miền Nam có Dân chủ, Tự do, Nhân quyền nhưng ngoài TT Ngô đình Diệm là tương đối khá.(nhưng TT Diệm đã bị bọn khố xanh khố đỏ theo lệnh Mỹ giết nên mới xẩy ra ngày 30-4-75). Bọn còn lại, tên thì khố đỏ khố xanh, trì độn, ba búa như Trần thiện Khiêm, Nguyễn chánh Thi, Vương văn Đông, Nguyễn triệu Hồng v.v...Những tên làm tay sai cho giặc Cộng, cõng rắn cắn gà nhà, ăn cơm QG thờ ma CS như Ngô công Đức, Phan xuân Huy, Nguyễn văn Binh...,;


tên về liếm gót giầy kẻ thù như Nguyễn cao Kỳ, Đỗ Mậu và tên nhạc sĩ già mất nết Phạm Duy v.v....


Xin hãy công bình suy xét, đất nước chúng ta, từ những người lãnh đạo cả hai Miền đồng thời như thế, có khá được không???

Vài trăm năm nữa cũng chưa đuổi kịp Singapore đâu, thưa bạn đọc!


KHÔNG THÀNH CÔNG THÌ THÀNH NHÂN


Tôi không nhớ hết những nhóm quân nhân cả sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã đứng thành vòng tròn, hát bài Quốc ca: ”Này công dân ơi!..”rồi hô: "Việt Nam muôn năm”, " QLVNCH muôn năm”


rồi 1,2,3, mở dăm quả lựu đạn đồng thời. Những người anh hùng này thà chết chứ không chịu rơi vào tay giặc mà từ bao năm họ đã chiến đấu kiêu hùng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho ba miền.


- Tôi đã quên tên Người Anh Hùng, Trung tá TQLC đã tự sát bằng lựu đạn ở vườn hoa trước Hạ Nghị Viện; nhưng tôi không quên Trung tá Võ ngọc Đường khóa 11 Đàlạt đã tự sát tại BCH Biệt động quân và Đại tá Hoàng văn Hoàn thuộc đơn vị 101 (Nhảy toán ra Bắc)Vùng 3 Chiến thuật (trực thuộc phòng Nhì Bộ TTM) đã tự sát ngay trước sân cờ Bô TTM ngày 30-4-75 sau khi Dương văn Minh đầu hàng CS. Còn rất nhiều nữa mà có lẽ chúng ta phải thâu thập tài liệu hình ảnh để làm một cuốn sách riêng về ngày 30-4-1975 lưu lại cho con cháu đọc và hiểu rõ mọi ngọn ngành, vì sao có cuộc chiến đó, Việt gian CS xâm lược cưỡng chiếm với vũ khí của quốc tế CS ra sao và miền Nam đã tự vệ với sự giúp đỡ của người Mỹ như thế nào?

Tôi không đồng ý với LS Cung đình Thanh, trong bài Thế nước, lòng dân” đăng trên Diễn đàn Huyết Hoa, có câu rằng:


“Năm 1973 Hòa hội Paris......


Không biết u mê nào đã dẫn dắt những lãnh đạo của hai miền đất nước (VN) hai bên vẫn tiếp tục quần thảo nhau và để rốt cuộc đầu năm 1975, Cộng sản đã cưỡng chiếm miền Nam...”


Tôi thiển nghĩ những người cầm bút nên cẩn trọng khi viết về những dữ kiện lịch sử.

Ông Cung đình Thanh cần nhớ rằng, Hồ chí Minh và đảng Việt gian CS miền Bắc đã xua quân vào quấy phá, giết hại người miền Nam chứ không phải u mê nào đã dẫn dắt những lãnh đạo của hai miền tiếp tục quần thảo nhau đâu.

Nếu Hồ chí Minh còn sống, ông chỉ hỏi Hồ là rõ tất cả. Hồ chết rồi thì còn người dân hai miền, nhất là dân miền Nam là biết ai gây ra chiến tranh, ai chỉ đóng vai thế thủ.

Người miền Nam, từ Tổng Thống Ngô đình Diệm cho đến TT Nguyễn văn Thiệu sau này, chỉ có tự vệ, chỉ có chống đỡ, giặc xông vào đánh mình thì mình phải đánh trả, đuổi chúng về Bắc chứ không có xâm lược ai, không tự nhiên đem quân đánh người khác, nhất là người miền Bắc, đã được quốc tế thỏa thuận cho cả hai miền đình chiến cũng như đã chia thành 2 miền theo Hiệp định Geneva năm 1954.


Ông Cung đình Thanh cũng cần nhớ rằng, Việt gian CS gây ra muôn vàn tang tóc điêu linh cho cả đôi bên chứ người miền Nam chỉ mong được VC để yên để làm ăn, học hành và tiến bộ. Đó là sự thực chúng ta không thể chối bỏ được. Nếu VC không xâm chiếm miền Nam thì miền nào ở yên miền ấy, nước VN vẫn có hòa bình như Nam và Bắc Hàn, Đài loan và lục địa và Đông Đức với Tây Đức.


- Tôi không nhớ chính xác con số vài trăm viên chức và Cảnh sát xã ấp ở Tuy Hòa bị CS bắt đứng ra xếp hàng cho chúng xử tử ngay khi chúng chiếm được Tuy Hòa, Phú Yên.


- Đồng viện với tôi, một DB khá thân, đã đứng tuổi, cùng tôi từng ngồi tâm sự về tình hình thời cuộc khi chúng tôi có giờ giải lao tại HNV, đó là anh Nguyễn Mậu, DB Quảng Tín, lập trường QG vững chắc, đã bị CS bắn ngay khi chúng vừa chiếm được Quảng Tín chỉ vì anh kiên định lập trường Quốc gia dân tộc, không nhường bước CS.

- Một đồng viện khác của tôi, anh Huỳnh văn Lầu, đạo Hòa Hảo, DB Châu đốc, một người bộc trực, ăn to nói lớn, lập trường QG, đã bị CS đưa ra sân vận động bắn khi chúng vừa chiếm được tỉnh này.

Còn rất nhiều anh hùng liệt nữ khác đã chết cho miền Nam trong ngày 30-4-75 mà bài này không thể đề cập hết. Những anh hùng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Hồ ngọc Cẩn, Nguyễn đình Bảo, và rất nhiều cấp Tá, cấp Úy, Hạ sĩ quan, binh sĩ v.v..., những người con yêu của Tổ quốc sẽ muôn đời được ghi nhớ bởi những chiến tích trừ gian, khử bạo, tiêu diệt bọn Việt gian CS gian ác, phi nhân, phi dân tộc, đặt mình làm nô lệ cho CS quốc tế, bán đứng đất nước cho ngoại bang!


Tôi chân thành nghiêng mình kính cẩn trước hương linh chư vị anh hùng liệt nữ đã hi sinh vì miền Nam Tự Do Dân chủ. Tôi cam đoan với quí vị rằng, quí vị đã ra đi nhưng danh thơm còn mãi mãi bởi các vị đã làm đúng, đứng về phía lẽ phải và Dân tộc, như ngày nay, cả thế giới công nhận sự hi sinh hữu ích của quí vị, phủ nhận bạo quyền hung ác tàn phá nước Việt. Những Nguyễn khoa Nam, Hồ ngọc Cẩn v.v...sẽ sống mãi trong lòng dân tộc và nhân dân thế giới tự do Trái lại, bạo quyền đã bị nhân dân VN và nhân dân thế giới phỉ nhổ, thóa mạ và còn tiếp tục thóa mạ dài dài. Quốc Hội Âu châu ngày 12-7-2007 lại lên án chế độ dã man tàn bạo CSVN, đòi CS phải tôn trọng Nhân quyền và các quyền Tự do của Nhân dân Việt Nam.

--------------------------------------------------------------------------------

TRÌNH DIỆN ĐI TÙ CẢI TẠO

Ngày 1-5-1975, Ủy Ban Quân quản của Việt Gian Cộng sản ở Sàigòn thông báo trên Radio, Truyền hình là các quân nhân, công chức các cấp trong chính quyền Sàigòn phải đi trình diện tại đơn vị cũ của mình. Ai bất tuân sẽ bị nghiêm trị. Các Dân Biểu Hạ Nghị Viện VNCH phải đến Văn phòng HNV trình diện.


Người bạn của Bút Xuân, tức anh A ở những bài trước, mặc quần áo lèng xèng, đi xe ôm lên HNV (xe hơi phải bỏ xó) trình diện vào ngày 2-5-75 thì gặp đồng viện là DB Nguyễn văn Kim, hai anh rủ nhau vào trình diện.

Vào đến văn phòng hỏi nhân viên bây giờ trình diện ai? Nhân viên nói nhỏ:

- “Các ông Dân Biểu phải trình diện ông cựu DB Nguyễn văn Phước, bây giờ là Thượng tá công an CS đấy."

Thượng tá Phước ngồi ở văn phòng ông Lê công Thành (nguyên Tổng Quản Trị/HNV, tức là một công chức cao cấp lo về hành chánh, lương bổng nhân viên).

Hai anh A và Kim gõ cửa vào, thấy DB Nguyễn văn Phước (đơn vị Châu đốc), một đồng viện của mình trước đây, rất mờ nhạt trong sinh hoạt HNV, đang ngồi ở bàn làm việc, nhìn ra, mặt mày vênh lên, ra vẻ ta đây, trông rất hách.

Thượng tá công an CS Nguyễn văn Phước đeo kính đen, mặc một bộ quần áo bốn túi mầu gụ, như kiểu đại cán, đi dép Bình-Trị-Thiên (lốp xe hơi), vai khoác cái khăn rằn của dân miền Nam, đường đường là một cán bộ cấp cao Cộng Sản, hét ra lửa, mửa ra khói. Một cái nón cối mầu cỏ úa để cạnh bàn.

Sau khi lễ phép chào, anh A hỏi:

-“Thưa anh Phước, chúng tôi đến trình diện theo lệnh của Ủy Ban Quân quản thành phố Sàigòn. Chúng tôi phải trình diện ai thưa anh?”

Nguyễn văn Phước vỗ vào ngực mình, hươi hươi tự đắc, lên giọng kẻ cả:

-“Các anh trình diện tôi, chứ trình diện ai!”

Sau đó NVP chỉ cho hai anh Kim và A đến cái bàn đã có cuốn sổ ghi tên, ngày giờ, kí tên trình diện.

Nhìn quang cảnh, Dân Biểu A thấy các nhân viên HNV, từ Giám đốc đến thư kí, đến cảnh lại, tùy phái xanh mắt khi nghe DB Nguyễn Văn Phước tự xưng là Thượng tá CS, tiếp thu HNV. Mọi người đều chạy có cờ khi Phước sai bảo. Phước rất hống hách để tỏ uy quyền làm nhân viên HNV nghĩ rằng các quan CS chỉ nói miệng:”cán bộ là đầy tớ dân, công an với dân như cá với nước” nhưng thực sự công chức thời Pháp thuộc kể cả những người bị gọi là cường hào ác bá khi xưa cũng không phách lối, hách dịch, kiêu căng với dân bằng cán bộ, công an Cộng sản. Trong nhân dân có câu thành ngữ:

Không quan nào sướng bằng quan Cộng sản

Không dân nào khổ như dân trong chế độ Cộng sản.

Khi hai anh A và Kim chào, ra về, Thượng tá công an Phước bảo hai anh:

-“Các anh có gặp anh em bảo họ phải đến trình diện đúng kì hạn. Nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng, cách mạng sẽ khoan hồng cho các anh. Nếu trốn tránh sẽ bị nghiêm trị.”

Hai anh A và Kim dạ dạ, vâng vâng ra về với một nỗi buồn lo: không biết tương lai mình sẽ ra sao đây?

....

GS Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC


Cựu DB Hạ Nghị Viện VNCH
(vnfa)

Aucun commentaire: