30 năm sau: kẻ “chiến thắng” xin qui hàng
Có thể nói được rằng: mỗi người có một kiểu nhìn riêng đối với Dịch Học. Mỗi người có ngôn ngữ, cú pháp riêng để diễn tả Dịch Học. Thế nhưng, mọi người đều dễ dàng đồng ý với nhau: cuối con đường đi tìm nội dung cốt lõi của Dịch Học, con người sẽ bắt gặp hai chữ: “PHẢN PHỤC”. Phản phục là qui luật xác định: mọi hiện tượng trên đại vũ trụ đều ẩn tàng trong nó một mầm mống chống lại chính hiện tượng đó.
Trong thái dương có thiếu âm và trong thái âm có thiếu dương. Thiếu âm, thiếu dương là các mầm mống phản phục của thái dương và thái âm. Từ rất xa xưa, ca dao Việt Nam đa khám phá ra hiện tượng phản phục:
“Cười người chớ có cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau người cười”
(Ca dao Việt Nam)
“Người cười” là mầm phản phục của hịên tượng “cười người”. Câu hỏi đặt ra:Làm thế nào để con người có thể xác định được mối quan hệ tất yếu giữa lực phản phục và những chuyển mình của lịch sử? Chúng ta hãy đi tìm giải đáp cho câu hỏi vừa nêu bằng cách khảo sát bản chất chính trị của biến cố 30/4/1975 và các mầm mống phản phục của nó.
Như chúng ta đã biết, biến cố 30/4/1975 hiển nhiên là một hồ sơ tràn ngập tội ác. Nổi bật là những tội ác sau đây:
_ Lợi dụng tình hình chính trị tại Hoa Kỳ gặp khó khăn, CSViệt Nam phản bội hiệp ước Ba Lê 1973, mang quân xâm chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
_ CSViệt Nam trả thù quân, dân VNCH bằng cách tống giam hàng trăm ngàn người trong những trại tù khổ sai dưới tên gọi “học tập cải tạo”. Trong toàn bộ lịch sử của loài người, đây là một cuộc tắm máu độc ác nhất, âm thầm nhất, nham hiểm nhất .
_ CSViệt Nam cướp đoạt tài sản, nhà cửa của người dân đàng sau tấm bình phong “đánh tư sản mại bản”.
_ CSViệt Nam đẩy hàng trăm ngàn người dân Việt Nam xuống đáy biển qua chương trình vượt biên “bán chính thức”. Những nạn nhân của chương trình này phải nộp vàng cho CSViệt Nam để được CS tống xuất ra biển trên những chiếc ghe thiếu hẳn những phương tiện an toàn tối thiểu.
_ Hàng triệu người Việt Nam khác do không chịu nổi chế độ hà khắc của CS, đã âm thầm băng rừng, vượt biển đi tìm tự do. Khoảng 40% số người này đã phải trả giá cho hai chữ “tự do” bằng chính sinh mệnh của họ.
_ CSViệt Nam xem người dân như những kẻ nô lệ của đảng CS. Đảng đã và đang rộn rịp bán nô lệ cho bất kỳ quốc gia nào cần nô lệ. Nô lệ của CSVN được gọi dưới mỹ danh “những người tham gia chương trình xuất khẩu lao động” hoặc “những người thành hôn với người nước ngoài”, đặc biệt là “nước Đài Loan”.
_ Kinh tế thị trường với tất cả kỹ thuật kinh tế và pháp lý tinh vi của nó chắc chắn sẽ đẩy xí nghiệp quốc doanh và đảng CSVN rơi vào tử huyệt. Vì vậy CSVN chỉ giả vờ khoác áo kinh tế thị trường đủ để lấy lòng giới kinh tế tài chính quốc tế. Trong thực tế, tại Việt Nam, ngày nay đảng CS và tay chân vẫn nắm chặt mọi ưu quyền kinh tế, vẫn cứng rắn bảo vệ guồng máy cầm quyền cực kỳ tham ô, cực kỳ phản văn hóa. Đây là lý do giải thích tại sao Việt Nam bị các quốc gia lân bang bỏ rơi rất xa trên con đường tiến bộ. Đây còn là tội ác kinh tế, văn hóa mà CSViệt Nam đã gây ra trên đất nước Việt Nam.
Tất cả những tội ác kể trên đã tạo ra trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam niềm phẫn uất và ý chí phản kháng hướng về đảng CSViệt Nam. Đó là cội nguồn của lực phản phục tiềm ẩn bên trong mối quan hệ giữa người dân và nhà cầm quyền CSViệt Nam. Chừng nào lực phản phục kia bừng nở thành HOA TỰ DO DÂN CHỦ? Câu trả lời xin được giải bày thông qua ba tình huống bang giao quốc tế sau đây:
I.- BANG GIAO VIỆT- HOA.
Việt ở đây là Việt Cộng. Hoa ở đây là Trung Cộng. Đối với Việt Cộng, quyền thống trị của đảng CSVN là mục tiêu tối thượng. Nhóm chữ “quyền lợi dân tộc” chỉ được CSViệt Nam xử dụng như một khẩu hiệu tuyên truyền trống rỗng và nhàm chán. Đầu thập niên 1990, sau khi Liên Xô và hệ thống CS thế giới tan vỡ, với ý đồ bám chặt quyền thống trị xã hội Việt Nam, nhóm lãnh đạọ CSVN đã đề nghị Trung Cộng đứng ra làm lãnh tu tối cao của các quốc gia CS còn sống sót , bao gồm: Trung quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn. Trung Cộng lạnh lùng giữ im lặng trước đề nghị nồng nhiệt của CSVN. Những năm kế tiếp, vẫn với ý muốn chấp nhận quì gối trước Trung Cộng để được yên thân ngồi trên ngai vàng Việt Nam, CSVN đã liên tục phục vụ “Thiên triều” bằng các hành động sau đây:
_ 1999 VC ký thỏa ước nhượng một phần lãnh thổ Việt Nam cho Trung Cộng.
_ 2000 VC ký thỏa ước nhượng một phần lãnh hải cho Trung Cộng.
_ Ngay sau vụ nhóm Bin Laden tấn công vào Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế Nữu Ước và Ngũ Giác Đài tại Hoa Thịnh Đốn ngày 11/09/2001, VC đã cùng Trung Cộng tổ chức biểu tình gọi là “liên hoan ăn mừng chiến thắng”.
_ Ngày 12 tháng 9/ 2004, VC ban hành pháp lệnh cho phép người Trung quốc với tư cách du khách (kể cả nhân viên tình báo giả dạng du khách) được quyền tự do di chuyển đến bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.
_ Ngoài ra, tuân lệnh Trung quốc, VC xây dựng rất nhiều cầu cống (đặc biệt là 11 cây cầu băng qua sông Hồng), phi trường, xa lộ Trường Sơn... Tất cả những phương tiện giao thông vừa kể nhằm giúp cho quân đội Trung quốc dễ dàng tràn về phương Nam Việt Nam trong trường hợp cần thiết.
Trên đây chỉ là một số sự việc trong muôn ngàn sự việc khác cho thấy VC đã phục vụ Trung Cộng bằng tất cả thái độ mẫn cán. Thay vì ban thưởng cho VC, Trung quốc laị lầm lì, công khai và triền miên đánh phá Việt Nam:
_ Từ nhiều năm qua, Trung quốc không ngừng đẩy hàng lậu ồ ạt đè bẹp thị trường Việt Nam, làm cho kinh tế Việt Nam vô phương phát triển.
_ Hải quân Trung quốc thường xuyên bắn giết ngư phủ Việt Nam nhằm độc chiếm vịnh Bắc Bộ.
_ Trung quốc cho người xâm nhập Việt Nam để thu mua móng chân trâu, đuôi trâu với thâm ý giết chết nông nghiệp Việt Nam.
_ Một số sông ngòi quan trọng của Việt Nam (đặc biệt là sông Cửu Long) có thượng nguồn từ Trung quốc. Lợi dụng vị thế địa hình vừa kể, Trung quốc không một chút ngần ngại phạm tội ác gây ô nhiễm trầm trọng môi trường sinh sống của người Việt.
Nói chung, Trung quốc không từ bỏ bất kỳ âm mưu hiểm ác nào có tác dụng đẩy đất nước và con người Việt Nam rơi vào hố diệt vong. Sự thể này cho chúng ta thấy: Trung quốc quyết tâm tạo mọi loại sức ép để biến VN thực sự thành một tỉnh của Trung quốc. Sống bên dưới các loại sức ép kia, CSViệt Nam thừa biết hai điều:
_ Một là Trung quốc mãi mãi ghi nhớ Việt cộng là một tên tôi tớ phản bội. Phản bội Tàu để chạy theo Nga. Chiến tranh Hoa Việt tháng 2/1979 là vết nhơ không thể tẩy xóa được trong lịch sử bang giao VC và TC.
_ Hai là, để trả hận thù cũ, một khi Việt Nam nằm gọn trong vòng tay đô hộ của Bắc xâm, Trung Cộng sẽ không dành đất sống cho VC. Đó là hai lý do giải thích tại sao ngày nay CSViệt Nam lại phải nỗ lực tìm đường từ giã Bắc Kinh. Sau khi chia tay với Bắc Kinh, CSViệt Nam sẽ đi về đâu? Câu trả lời nằm trên mối bang giao Mỹ-Hoa.
II.- BANG GIAO MỸ- HOA.
Đầu thập niên 1970 do nhu cầu tách rời Trung quốc ra khỏi Liên Xô, Hoa Kỳ đã tích cực giúp Trung quốc phát triển năng lực quân sự lẫn kinh tế. Đầu thập niên 1990, Liên Xô và hệ thống CS thế giới tan rã. Bang giao Mỹ Hoa trở nên ngày một xấu đi, điển hình là các sự việc sau đây:
_ Tháng 12 năm 1998, Trung quốc ký một hiệp ước hợp tác quân sự với Taliban. Trong đó có điều khoản: Taliban cam kết chuyển giao cho Trung quốc những đầu đạn hỏa tiễn do Hoa Kỳ bắn vào các căn cứ huấn luyện của Hồi Giáo cựu đoan. Những đầu đạn này vì lý do ky thuật đã không phát nổ. Trung Quốc cần những đầu đạn kia để đánh cắp bí mật quân sự của Mỹ.
_ Ngày 08/03/1999 Hoa Kỳ chính thức phản đối Trung quốc về việc Trung quốc đã gài địêp viên Wen Lee Ho vào làm việc tại căn cứ nguyên tử Los Alamos của Hoa Kỳ.
_ Trước biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 không bao lâu, Trung quốc ra lệnh cho cơ quan tuyên huấn của quân đội Trung quốc dịch tác phẩm “Chiến tranh không hạn chế” từ tiếng Hoa ra tiếng Ả Rập. Bản dịch này nhằm giúp Bin Laden huấn luyện quân khủng bố một cách tinh vi và hữu hiệu hơn. Tác giả của tác phẩm kia là Kiều Vương và Vương Tương Toại, họ là quân nhân của quân đội Trung quốc.
_ Do phát triển kinh tế bừa bãi, thiếu tính toán, guồng máy kinh tế khổng lồ của Trung quốc ngày nay đang phải đối đầu với những khó khăn cực kỳ to lớn: thiếu nước, thiếu nhiên liệu, thiếu điện, lực lượng lao động già nua do chính sách mỗi gia đình một con được áp dụng từ 1979... Nhằm đương đầu với khối khó khăn vừa kể, Trung quốc một mặt xâm lấn các quốc gia lân bang, mặt khác sẵn sàng thực hiện bất kỳ hành động tàn ác nào, miễn là hành động đó đáp ứng được hy vọng cứu nguy nền kinh tế Trung Quốc. Đó làl ý do giải thích tại sao Trung quốc bảo trợ và buôn bán vũ khí sinh hóa, nguyên tử với Bắc hàn, Iran cùng các quốc gia và tổ chức khủng bố chống Mỹ trên đất Mỹ và trên toàn thế giới. Các hành động vừa nêu chẳng những giúp Trung quốc thâu lợi nhuận mà còn tạo điều kiện để Trung quốc quấy nhiễu Hoa Kỳ. Quấy nhiễu như vậy gây tác dụng cầm chân Hoa Kỳ ngõ hầu Trung quốc có thể một mình một ngựa tiến chiếm ngôi vị bá chủ hoàn cầu.
Đối đầu với một Trung quốc ngang ngược và nham hiểm, Hoa Kỳ không thể không nghĩ đến một chính sách ngoại giao riêng dành cho Trung Quốc. Sự kiện Hoa Kỳ đón tiếp thủ tướng CSViệt Nam Phan Văn Khải là chỉ dấu rõ ràng nhất cho thấy những toan tính mới của Mỹ hướng về Hoa .
III.- BANG GIAO MỸ - VIET.
Sau một thời gian đương đầu với khủng bố, Hoa Kỳ nhận biết rằng các chế độ độc tài áp bức chính là cha đẻ của nạn khủng bố quốc tế, và rằng chỉ có chế độ dân chủ chân chính mới có khả năng giải trừ được tận gốc rễ các tệ nạn: độc tài, tham ô, buôn lậu, khủng bố...Vì vậy, trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ II, Tổng Thống George W Bush khẳng định: “Sự tồn tại của nền tự do tại Hoa Kỳ ngày càng lệ thuộc vào kết quả tự do tại các quốc gia khác. Hy vọng tốt nhất cho nền hòa bình trong thế giới của chúng ta là sự phát triển tự do trên toàn cầu”.
Nhằm khẳng định quyết tâm dân chủ hóa toàn cầu, Tổng Thống George W Bush đưa ra hai thông điệp:
_ Thứ nhất: Nói với các nhà cầm quyền độc tài áp bức: “ Những lãnh tụ của các chính quyền có thói quen cai trị lâu năm cần biết rằng: để phục vụ nhân dân, quý vị phải học đặt niềm tin nơi nhân dân của quý vị. Hãy bắt đầu con đường tiến bộ và công bằng thì Hoa Kỳ sẽ đi bên cạnh quý vị.”
_ Thứ hai: nói với những người đấu tranh cho tự do, dân chủ: “ Những người cách mạng dân chủ gặp phải cảnh bắt bớ, đàn áp, tù đày hoặc lưu vong, xin quý bạn có thể hiểu rằng: Hoa Kỳ nhìn thấy quý bạn là ai: là những lãnh tụ tương lai trên quốc gia tự do của quý bạn.”
Mục tiêu quan trọng hàng đầu của chương trình dân chủ hóa toàn cầu do Hoa Kỳ phát động chính là Trung Quốc. Muốn vậy, Hiệp Chủng Quốc phải ưu tiên vô hiệu hóa những mưu toan quấy phá an ninh quốc tế của Trung quốc. Từ kế hoạch vô hiệu hóa vừa kể, Hoa Kỳ chọn CSViệt Nam như một đồng minh thân cận, kiểu Pakistan. Nếu Pakistan có chung biên giới với Iran và Afghanistan thì Việt Nam có chung biên giới với Trung quốc. Đó là lý do giải thích tại sao ngày 3 tháng 2 năm 2005, từ San Francisco trong một bài thuyết trình in sẵn, ông Michael W Marine, đương kim Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, long trọng xác nhận: “ Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và kiên quyết chống lại bất cứ nỗ lực nào nhằm chia rẽ hay gây rối biên giới của Việt Nam. Trái lại, chúng ta có lợi ích chung trong việc bảo đảm an ninh khu vực và trên thế giới. Mối quan hệ hợp t ác trên lãnh vực quốc phòng hiện nay của chúng ta là những bước đi đầu tiên nhằm tìm ra một phương cách phù hợp để cả hai nước có thể cùng nhau đối phó với những thách thức an ninh trong thế kỷ 21.”
Để củng cố lòng tin tưởng của người Mỹ và người Việt đối với chính sách ngoại giao mới trong bang giao Việt Mỹ, Đại Sứ Michael W Marine nhấn mạnh: “ Mặc dầu cả hai quốc gia chúng ta đã có lịch sử không thuận hợp, song một sự kiện rõ ràng là cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ hiện không có dị biệt nào về mặt chiến lược.”
Không còn nghi ngờ gì nữa, CSViệt Nam cần chạy trốn hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư. Hoa Kỳ cần một đồng minh cản bước tiến của Trung quốc. Hai cái “cần” vừa kể cộng lại với nhau tạo thành bang giao Việt Mỹ 2005. Sự có mặt của Thủ Tướng Phan Văn Khải tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2005 là dấu hiệu mở đầu công cuộc đổi chủ của CSViệt Nam. Từ chủ Tầu, VC chạy qua chủ Mỹ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lợi dụng bàn cờ chính trị quốc tế, VC tự nhận mình là kẻ chiến thắng và gọi Mỹ là kẻ chiến bại. Ba mươi năm sau: 30/4/2005 cũng chính bàn cờ chính trị quốc tế đã buộc CSViệt Nam phải quy phục Hoa Kỳ. Quyết định quy hàng của CSViệt Nam đã đẩy chế độ độc tài này đối diện với hai giai đoạn lịch sử:
_ Giai đoạn I: còn gọi là giai đoạn trăng mật giữa Mỹ và VC. Tại gia đoạn này có thể Hoa Ky đáp ứng một số yêu sách của CSViệt Nam về kinh tế cũng như về nhu cầu tăng cường sức mạnh quân sự.
_ Giai đoạn II: đây là giai đoạn CSViệt Nam phải đồng loạt nhận lãnh hai loại áp lực:
+ Áp lực từ phía chính phủ Mỹ: muốn thi hành hữu hiệu vai trò lá chắn đối với Trung quốc, CSViệt Nam phải là một nhà cầm quỳên không tham ô, luật pháp phải tinh vi và khoa học. Nói ngắn và gọn, CSViệt Nam phải dân chủ hóa theo đúng chủ trương đã được xác định trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ II của ông George W Bush.
+ Áp lực từ phía nhân dân Hoa Ky ø(đặc biệt là người Mỹ gốc Việt): tại Hoa Kỳ dầu là Dân Chủ hay Cộng Hòa, không thể có nhà cầm quyền nào dám coi thường lá phiếu của người dân bằng cách dùng đồng tiền thuế của người dân để nuôi dưỡng dài hạn một chế độ độc tài và tham ô kiểu CSViệt Nam. Vì vậy bang giao Việt Mỹ hiểu theo nghĩa Việt Nam là Pakistan tại Đông Nam Á, chắc chắn sẽ bị cử tri Hoa Kỳ gây áp lực nặng nề, nhằm buộc Mỹ phải dân chủ hóa Việt Nam, với tốc độ làm chóng mặt chế độ độc tài. Sỡ dĩ vị trí của người Mỹ gốc Việt trên địa bàn áp lực chính trị tại Mỹ được bài viết này nhấn mạnh là vì đó là một thực tế chính tri mà Hà Nội không thể chối bỏ. Ngày 17/04/2005 trên báo Thanh Niên của CSViệt Nam chính Lê văn Bàng thứ trưởng bộ ngoại giao của Ha Nội đã phải xác nhận:” Vai trò của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ trong mối quan hệ giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội là rất quan trọng.”
Dưới cả hai loại áp lực kể trên, CSViệt Nam không thể không quy hàng thể chế tự do dân chủ. Đó là chân ý nghĩa của bài viết: 30 năm sau, kẻ chiến thắng xin quy hàng. Đó còn là sức mạnh hiển nhiên của lực phản phục được diễn tả bằng những chuyển mình của lịch sử.
ĐỖ THÁI NHIÊN
*
***
*
30/4/07 DCVOnline phỏng vấn Bùi Tín
Diễn Đàn Công Dân: 05-07-07: Câu chuyện thời sự: Bình luận gia Lý Đại Nguyên
vendredi 15 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire