vendredi 15 juin 2007

Việt Nam trước thế chiến lược của các siêu cường

VIỆT NAM TRƯỚC THẾ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC SIÊU CƯỜNG


Việt Nam là một dân tộc co một nền văn hiến gần 5000 năm lịch sử, một nền văn hiến kỳ cựu trong các nền văn kiến kỳ cựu nhất trên thế giới. Chính nền văn hiến kỳ cựu này đã soi đường dẫn lối cho cha ông chúng ta, trải qua bao thăng trầm lịch sử, vẫn kiên cường đấu tranh bảo vệ đươc giống nòi, bảo vệ được tổ quốc.

Trong quá trình gần 5000 năm dựng nước và giữ nước, tuy phải trải qua bao thăng trầm, vinh nhục, nhưng chưa bao gìờ dân tộc ta phải sống trong kìm kẹp, nghèo khổ, tủi nhục và lầm than, xã hộI băng hoại, vô đạo như dưới chế độ cộng sản ngày hôm nay.

Quá trình chiến đấu bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm, cũng như khởi nghĩa đánh đuổi ngoạI xâm ở phương Bắc dành lại độc lập, chủ quyền; hoăc qua các cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập, tự do… Tổ tiên, cha ông chúng ta đã chứng tỏ được ý chí sắt đá, tinh thần đoàn kết một lòng, cũng như óc sáng tạo tuyệt vời, và dã đem lại chiến thắng vinh quang cho dân tộc.

Sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm, khởI nghĩa, kháng chiến dành độc lập, chủ quyền ngày xưa tuy rất gian khổ và đòi hỏi hy sinh nhiều xương máu, nhưng kẻ xâm lăng hay cai trị là ngoại bang. Cuộc diện cuộc chiến luôn luôn mang tính chất cục bộ và khu vực…Cuộc chiến mà dân tộc ta đã, đang và sẽ tiếp tục chiến đấu và phải chiến thắng là một cuộc chiến cực kỳ cam go, giảo quyệt và cạm bẫy. Kẻ xâm lăng và cai trị không phải là ngoại bang, mà là chính ngườI Việt Nam đã mất hết nhân tính Việt Nam… Cuộc diện cuộc chiến hoàn toàn không mang tính chất cục bộ và khu vực, mà ngược lại nó luôn luôn bị chi phối và ảnh hưởng bởI các chiến lược toàn cầu của các siêu cường.

Thực vậy, hoàn cảnh đất nước chúng ta nói riêng và thế giới ngày nay nói chung đã thay đổi hẳn. Do sự tiến bộ của vượt bậc của khoa học và kỹ thuật. Thế giớI hầu như đã thu nhỏ lại. Các nhà làm chính sách kinh tế, chính trị, tài chánh và quân sự…của các siêu cường luôn luôn nhìn sự việc dưới góc độ toàn cầu. Bất cứ nhà hoạt động chính trị, làm chính sách kinh tế nào mà không có cái nhìn đó, ắt hẳn họ phải thất bại, dân tộc họ phải chuốc lấy vạ lây.

Một cường quốc kinh tế như Nhật Bản, nhưng chỉ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có cái toàn cầu, nền kinh tế của Nhật đã trải qua giai đoạn có nguy cơ xụp đổ. Đến nỗi trước đó ông Norio Ohga, chủ tịch công ty điện tử Sony đã phải đã phải lên tiếng cảnh cáo rằng: “ Ngày nay chúng ta đang hoạt động kinh doanh trên bình diện thế giới, nhưng các chính trị gia vẫn chỉ hành động trong phạm vi quốc nội. Tôi mong họ phải hiểu biết hơn về thế giới.”

Vơí nước Nhật còn như thế ! Vậy còn chúng ta thì sao? Chắc chắn cuộc chiến đấu dẹp bỏ chế độ độc tài, đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền, phú cường và hạnh phúc cho dân tộc ta ngày hôm nay khó khăn hơn hẳn cuộc chiến đấu chống ngoạI xâm, dành độc lập, chủ quyền từ đế quốc phương Bắc và thực dân Pháp ngày xưa.

Vì vậy, muốn chiến đấu và chiến thắng cuộc chiến này, chúng ta phải am tường, hiểu biết toàn diện. Nói rõ hơn, chúng ta phải có cái nhìn toàn cầu về đường lối và chiến lược của các siêu cường đối với thế giới, đối với các khu vực và đối với các quốc gia v.v…để qua đó, chúng ta tương kế, tựu kế nương theo chiến lược của họ, lợi dụng thời cơ tiến hành thàng công sự nghiệp giải phóng quê hương khỏi ách thống trị độc tài tàn bạo cộng sản, đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền, phú cường và hạnh phúc cho toàn dân.

I.THỰC TRẠNG CHỦ QUYỀN VIỆT NAM:

Hơn nửa thế kỷ qua, Việt Nam vẫn luôn luôn bị các siêu cường xử dụng như một phương tiện để mặc cả, trao đổi những quyền lợi thân thiết của họ. Vì thế, chúng ít có cơ hộI hành động như một quốc gia độc lập, có chủ quyền…DướI thời Pháp thuộc, Trung Quốc đã dùng giặc cờ đen, cờ đỏ…làm món hàng thương thuyết với Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Việt Nam là món hàng được dùng để mặc cả, trao đổi với Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ…Khi Cộng sản Việt Nam chiếm trọn Miền Nam, tiến đến thống nhất đất nước. Nhiều người cho rằng Hà Nội được độc lập trong việc hình thành các chính sách quốc gia của mình. Nhưng thưc tế không phải như vậy, Việt Nam đã và đang là tay sai, công cụ đắc lực cho chế độ bành trướng Đại Hán phương Bắc xuống phía Nam.


II. HOA KỲ VỚI CÁC HỌC THUYẾT TÒAN CẦU:

Không ai phủ nhận được vai trò siêu cường bậc nhất của Hoa Kỳ ngày hôm nay, cũng như những đóng góp của Hoa kỳ trong suốt thế kỷ qua. Không có Hoa Kỳ, người ta không thể hiểu được thế giới sẽ đi về đâu sau Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến. Đặc biệt nếu không có Hoa Kỳ, các chế độ thực dân, đế quốc khó mà họ chịu trả lại độc cho các dân tộc thuộc địa.Và cũng đặc biệt hơn nữa, nếu không có Hoa Kỳ, chắc chắn thế giới ngày nay đang sống trong “Địa ngục Cộng Sản hết rối. “ Và Cũng gỉa sử rằng, nếu siêu cường bậc nhất thế giới nay không phải là Hoa Kỳ mà là một quốc gia không cộng sản nào đó, thế giới ngày hôm nay cũng đang khốn đốn như thế nào?

Qua gần nửa thế kỷ qua, Hoa Kỳ đã và đang tiến hành hàng loạt các học thuyết chiến lược toàn cầu của mình. Tùy theo tình hình và thời điểm của thế giới để thủ đắc quyền lợi của mình. Các chiến lược đó được thực hiện qua các học thuyết: từ “ Thế giới đa cực” đến “ Co cụm ”, từ “ Bốn thế giới ” đến “ Trật tự thế giới mới ”, “ Diễn biến hòa bình “ và bây giờ “ Dân chủ hóa toàn cầu “. Trải qua các đời Tổng Thống Richard Nixon đến Gerald Ford, từ Jimmy Carter đến Ronald Reagan, từ George Bush đến Bill Clintơn, và bây giờ là George W. Bush. Mỗi học thuyết được thi hành là cuộc diện thế giớI bị biến động và thay đỗi. Miền Nam Việt Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do cũng không thoát khỏi qui luật đó.

Thực vậy, thế giới trước đây được chia làm hai cực: một cực do Hoa Kỳ lãnh đạo Thế Giới Tự Do. Một cực do Liên Xô lãng đạo Thế Giới Cộng Sản. Thế giới Thứ Ba mà chúng ta nghe nói đến trên thực tế khọng có thực lực. Cho nên thế giới chỉ có hai cực mà thôi: Lưỡng cực.

Với Thế Giới Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo, đóng vai “ Anh Cả “, bao thầu tất cả công việc chống cộng, từ huấn luyện nhân viên hành chánh đến an ninh, tình báo, quân đội… Từ viện trợ kinh tế đến quân sự. Tiền của, sinh mạng của người dân Hoa Kỳ cứ thế được đổ ra các “ Tiền đồn chống cộng “, hết ở Châu Á đến Châu Phi, hết ở Châu Mỹ La Tinh đến Trung Đông, rồi Âu Châuv.v… Ngân sách Liên bang càng ngày càng thâm thủng, nội bộ càng ngày càng bị phân hóa trầm trọng. Trong khi đó, các nước đàn em bị bại trận hay kiệt quệ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sau nhiều thập niên đã lấy lại phong độ, họ đã và đang trở thành những siêu cường khu vực và thế giới. Thậm chí đang cạnh tranh ngang ngửa với cả Hoa Kỳ. Vậy mà họ vẫn khoán trắng việc chống cộng cho “Đàn anh Hoa Kỳ” bao dàn.

Với Thế Giới Cộng Sản mà Liên Xô đóng vai trò lãnh đạo. Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấn dứt, Liên Xô đã nhanh chóng khôi phục lại đất nước. Dồng thời đã phát động và tổ chức cũng như viện cho các nổi dậy ở các nước nghèo, chậm tiến, chưa dành được hoặc vừa mới dành được độc lập… dưới chiêu bài “ Giải Phóng Dân Tộc” hay “ Cách Mang Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân…” mà thực chất là muốn nhuộm đỏ toàn thế giới.

Trong chiến tranh lạnh, chiến tranh du kích, chiến tranh phá hoại, chiến tranh khủng bố ít tốn kém hơn chiến tranh phòng thủ. Nếu Liên Xô bỏ ra 1 Dola để chi viện cho các nước “Đàn em” tiến hành chiến tranh du kích, chiến tranh phá hoại, chiến tranh khủng bố… thì Hoa Kỳ phải chi ra 10 hay tram lần nhiều hơn để chi viện cho “Đàn em” của mình phòng thủ. Như vậy, Hoa Kỳ dù có giàu đến đâu cũng không thể chịu dược. Đó là chưa kể ở khối cộng sản không phải có Liên Xô chi viện cho các cuộc nổi dậy trên thế giới mà còm có Trung Quôc. Trung Quốc nhất thời còn yếu đành cam phận lép vế Liên Xô. Nhưng trong bụng không bao giờ chịu khuất phục. Trung Quốc cũng củng cố phe nhóm của mình, cũng viện trợ cho các nước “Đàn em” để cạnh tranh ảnh hưởng với Liên Xô và tạo thế mặc cả vớo Hoa Kỳ.

Vì vậy, đối với Kissinger, thế giới không thể cứ tiếp tục hai cực. Hoa Kỳ phải mau chóng thoáy khỏi “ Căn bệnh mất máu này”. Thế giới phải được sắp xếp lại, nếu Hoa Kỳ muốn tiếp tục là siêu cường số 1.

Muốn vậy, thế giới phải đa cực, nói đúng hơn thế giới phải “ Ngũ cực”: Thế giới Tự Do biến thành 3 cực: Hoa Kỳ, Nhật bản và các nước Tây Âu ( Anh, Pháp, Đức, Ý…). Thế giới Cộng Sản biến thành 2 cực: Liên Xô và Trung Quốc. Hoa Kỳ nói với Nhật bản và Tây Âu rằng các bạn đã mạnh rồi, đã thành siêu cường hết rồi. Bây giờ các bạn phải chia xẻ trách nhiệm với chúng tôi. Đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ biết rõ Trung Quốc không bao giờ chịu cho Liên Xô lãnh đạo, cho nên Hoa Kỳ tìm cách giúp cho Trung Quốc trở thành cường về nguyên tử, và khi đã trở thành cường quốc về nguyên tử, được sự cam kết của Hoa Kỳ. Trung Quốc ngang nhiên tách ra khỏi và chống lại Liên Xô., lập một cánh riêng.

Thế Giới Tự Do chia thành 3 cực, Thế Giới Tự Do mạnh hơn. Thế Giới Cộng Sản chia làm hai cực, Thế GiớI Cộng Sản suy yếu đi vì chia rẽ và chống đối lẫn nhau.

Vừa ký được Thông Cáo Chung Thượng HảI với Trung Quốc, hoàn tất học thuyết Thế Giới Đa Cực. Hoa Kỳ quay qua co cum lại, bỏ hầu hết các “Tiền đồn Chống Cộng” trên thế giới. Học thuyết “ Co Cụm” còn được gọi là học thuyết Gerald Ford hay học thuyết “Thái Bình Dương “. Vì khi co cụm, Hoa Kỳ sẽ dùng lực lượng hải quân ở Thái Bình Dương của mình làm lá chắn phòng thủ. Thực hiện học thuyết “ Co Cụm “, Hoa Kỳ nhằm đạt các mục đích:

a. Hằng năm Hoa Kỳ không phải chi ra hàng chục tỷ Dola chi viện cho các nước “Đàn em “ mà vẫn bị dân chúng các nước đó lên án, chống và đuổi Mỹ.

b. Khi co cụm, Liên Xô và Trung Quốc phải chuyển qua tiếp thu. Từ phá hoại sang phòng thủ. Tronh tiếp thu mâu thuẫn Trung – Xô càng lớn mạnh.

c. Khi co cụm, cả nước Mỹ cảm thấy như bị thất trận, tự ái dân tộc bị xúc phạm. Phe phản chiến mất chính nghĩa. Mâu thuẫn nội bộ được dẹp bỏ dần.

d. Ngưòi dân sống ở các quốc gia tự do, do Hoa Kỳ chi viện vẫn chưa hiểu rõ bản chất của cộng sản. Nay Hoa Kỳ co cụm, cộng sản tràn vào, họ sẽ hiểu thế nào là “ Thiên Đường Cộng Sản”. Hoa Kỳ không phải mất một cent nào cho tuyên truyền chống cộng.

Với Hoa Kỳ, Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất, mặc dù họ luôn luôn ám ảnh lo sợ “ Họa Da Vàng”. Nhưng trước mắt Liên Xô là kẻ thù số 1. Vì vậy, co cụm để chạy đua vũ trang ( Chiến tranh giữa các vì sao…) để buộc Liên Xô phải dốc toàn lực chạy theo cũng chưa đủ để làm Liên Xô yếu, hoặc có yếu vẫn chưa kiệt. Cho nên trong 4 thế giới của Brezenki: Thế giới những giàu đang phát triển, thế giới những nước giàu chưa phát triển, thế giới những nước nghèo lạc hậu, và thế giới những nước cộng sản chia rẽ. Theo Brezenki, thế giới các nước cộng sản chia rẽ là quan trọng nhất. Chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc thôi chưa đủ, phải chia rẽ các nước trong khối Vacsava với nhau, và cả nước cộng hòa của Liên Xô với Liên Xô.

Do ảnh hưởng chiến tranh Việt Nam vẫn còn sâu đậm trong lòng dân chúng Mỹ. Vả lại, chiến tranh cũng không phải là phương cách tốt nhất có thể thi hành khi mà sư hủy diệt toàn bộ nền văn minh nhân loại có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Cho nên xu hướng chung của nhân loại, đặc biệt với dân chúng Hoa Kỳ là không chấp nhận không chấp nhận đối đầu chiến tranh và độc tài… Vì thế, chiến lược của Hoa Kỳ đối với thế giới cần phải thay đổi. Một “ Trật tự thế giới mới “ cần phải được sắp xếp lại trong “ Diễn biến hòa bình”. Nghĩa là mọi diễn biến đều không đổ máu hoặc ít đổ máu. Đồng thời quan niệm giải quyết các điểm nóng của thế giớI ngày nay cũng khắc hẳn, Hoa Kỳ không hành động đơn phương độc mã nữa, mà luôn luôn giải quyết dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc hay đa quốc gia.

Sau khi Liên Xô tan rã và Đông Âu xụp đổ hoàn toàn, khả năng nước Nga có thể trở thành một thế lực đe dọa Hoa Kỳ và Phương tây là vô phương. Vì vậy, Hoa kỳ đã chưyển hướng rất mau lẹ đối với phần còn lại của thế giới Tự Do, nhóm G7+1 nhằm chuẩn bị cho Hoa kỳ tiến vọt hẳn về phía trước so với các đồng minh của mình.:

a. Tái cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế Hoa kỳ. Các công ty mũi nhọn được tổ chức lại, thành lập khối kinh tế Bắc Mỹ ( Canada-Hoa Kỳ-Mexico), cải tổ welfare, quân bình ngân sách…

b. Tỗ chức lại lượng tình báo và quốc phòng, cải tổ và mở rộng khối quân sự NATO nhằm có thể đáp ứng được tình hướng khác với thời kỳ chiến tranh lạnh. Theo đó. kẻ thù lớn nhất, nguy hiểm nhất là Trung Quốc, người thương thuyết khó khăn nhất cũng là Trung Quốc, và cuộc chiến duy nhất sau này cũng là Trung Quốc..

c. Trong ngắn hạn cần củng cố chiến tuyến ở Úc Châu, tăng cường hiện diện ở Đông Dương, Đông Bắc Á và tiếp tục thương thuyết vơí Trung Quốc về căn bản mớI trong quan hệ song phương.

d. Khi tinh hình Đông Âu và nước Nga đi vào ổn định . Hoa Kỳ sẽ chuyển tài nguyên vào xây dựng lại nước Nga và Đông Âu. Điều này sẽ làm tương quan lực lượng trên vùng EUROASIA thay đổi. Kéo Ấn Độ về phía Phương Tây nhưng không làm hủy hoại quan hệ với Pakistan để giữ yên vùng Nam Á.

Kể từ ngày 11-09-2001. Sau khi Hoa Kỳ bị tấn công khủng bố tại Trung Tâm Thương Mãi Thế Giới và Ngũ Giác Đài. Hoa Kỳ bước sang một thời kỳ mới, một tình trạng mới: ngày 20-09-2001, TT Gêorge W. Bush tuyên bố đặt Hoa Kỳ trong tình trạng chiến tranh, vì Hoa Kỳ đã bị tấn công ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Kể từ đó, Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối ngoại và quân sự gần như 180 độ. Học thuyết Bush ra đời với những nét chính:

a. Dựa vào ưu thế tuyệt đối về kinh tế, tài chánh, quân sự và khoa học kỹ thuật…Hoa Kỳ đứng ra thành lập Liên Minh Chống Khủng Bố toàn Cầu.

b. Trước đây mọi hành động quận sự Hoa Kỳ đều cố gắng vận động cho được dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc hay liên quốc gia. Nhưng từ ngày Hoa Kỳ bị tấn công ngay trên đất nước của mình. Điều đó không còn co ý nghĩa gì nữa. Hoa Kỳ có quyền đánh trả bất kỳ kẻ thù nào mà không cần chờ bất kỳ quốc gia nào đồng thuận hay Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết.

c. Bin-la-đin, các nhóm khủng bố, hay các thế lực Hồi Giáo cực đoan chỉ là những con cờ. Kẻ đứng đằng sau xúi giục, giúp đỡ và tổ chức chính là Trung Quốc Đại Hán bá quyền: buôn bán ma túy, bán và phổ biến kỹ thuật sản xuất vũ khí giết người hàng loạt ( vi trùng, hóa học, nguyên tử…), hỗ trợ và bảo vệ những chế độ độc tài, quân phiệt, gây bất ổn khu vực và thế giới… để tạo thế mặc cả với Hoa kỳ và cuối cùng là thống trị thế giới.

d. Duyệt xét lại toàn bộ khả năng quốc phòng, tái phối trí lại lực lượng trên toàn cầu. Củng cố, tăng cường, hiện đại hóa và mở rộng Khối NATO ( Hội Đồng NATO – NGA) để hỗ trợ tích cực Liên Minh Chống Khủng Bố, nhằm bao vây, cô lập và tiêu diệt các chế độ tài trợ, nuôi dưỡng, huấn luyện, và chứa chấp các tổ chức khủng bố…

e. Một mặt xử dụng sức mạnh tuyệt đối của Hoa Kỳ về kinh tế, tài chánh, quân sự, khoa học kỹ thuật, và tình báo…cũng như các quốc gia đồng minh trong Hội Đồng NATO – NGA để chấn dứt các chế độ độc tài, tham nhũng, buôn lậu ma túy, thủ đắc và phổ biến vũ khí giết người hàng loạt. Một mặt mở eộng hầu bao lên đến hàng ngàn tỷ Dola để chi viện ồ ạt nhằm giúp các quốc gia đứng về phía Liên Minh Chống Khủng Bố thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu. Đồng thời hỗ trợ xây dựng một chế độ Dân Chủ Nhân Bản.

Đó là sách lược Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, thế giới sẽ là một ngôi làng, Hoa Kỳ sẽ là Ngôi Đình của Làng, và dĩ nhiên Ngôi Làng Thế Giới này sẽ có một Hội Đồng Làng để bỏ đi những gì là sản phẩm của Chiến Tranh Lạnh ( như Liên Hiệp Quốc) không còn thích hợp cho thời kỳ mớI nữa.

*
***
*

Việt Nam trước thế chiến lược của các siêu cường- phần cuối

V. CÁC LỰC LƯỢNG DÂN TỘC ĐẤU TRANH CHO TỰ

DO, DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN:

Sau khi Hà Nội thôn tính trọn Miền Nam Việt Nam. Bộ mặt thật dốt nát, tàn ác, bất lương, ăn cướp, độc tài, tham nhũng và phong kiến v.v… lộ nguyên hình. Nhân dân Miền Nam Việt Nam đã xôi xục nổi dậy chống cộng. Từ Hội Đồng Cách Mạng Dân Tộc và Nhân Bản, Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc, Mặt Trận Quốc Gia Việt Nam, Mặt Trận Việt Nam Tự Do…ở vùng thủ đô Sài Gòn và các vùng phù cận. Mặt Trận Việt Tiến ở Miền Tây. Việt Nam Cách Mạng Đảng ở Miền Trung. Lực Lượng FULRO ở Tây Nguyên v.v…Cùng với các Đảng phái kỳ cựu như; Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân, Dân Xã v.v…cũng như tín đồ các tôn giáo: Phật Giáo Hòa Hảo, Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Công Giáo, Tin Lành v.v…Nhưng hầu hết các tổ chức, dảng phái, tôn giáo đều bị thất bại, vì thiếu kinh nghiệm, không không được huấn luyện, tổ chức lỏng lẻo, rời rạc, cục bộ, nặng óc địa phương, xứ quân, lãnh chúa…so với đối thủ có quá nhiều kinh nghiệm, gian xảo và đầy thủ đoạn…Người dân chỉ còn biết trông chờ vào các Giáo Hội các Tôn giáo, vào nhà thờ và chùa chiền, thánh thất… Nhưng với mạng lưới "công an bảo vệ chính trị" dày đặc như vậy. Nhà thờ, chùa chiền hay thánh thất cũng chẳng làm gì được. Họ chỉ còn biết trông chờ vào lực lượng của đồng bào Hải Ngoại trở về giải phóng quê hương, giải phóng đồng bào mình thoát khỏi ách thống trị kìm kẹp, bóc lột của cộng sản.

Khi hầu hết các tổ chức chống cộng sa lưới nằm đầy ắp trong các trại giam, trại cải tạo…số còn lại thu vào hoạt động bí mật chờ thời cơ. Hàng triệu đồng bào không còn con đường nào khác đành bỏ tài sản, nhà cửa, mồ mả ông bà tổ tiên liều mạng sống vượt biển băng rừng chạy trốn cộng sản đi tìm tự do. Gần một triệu người đã phải bỏ mình nơi biển cả rừng xâu. Kẻ đến được bền bờ tự do thì đã phải trải qua biết bao nhiêu là gian chuan, cay đắng tủi nhục…

Vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80. Một số tổ chức của Ông Lê Quốc Túy, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh…bắt đầu đưa người xâm nhập trở về nước hoạt động. Nhưng cuối cùng cũng thất bại và sa lưới vì bị cục phản gián Hà Nội gài người xâm nhập vào.

Đến giữa thập nhiên 80, lợi dụng Hà Nội "cởi trói cho nhân dân" và "Đổi mới”. Giới văn nghệ sĩ, trí thức trong nước bắt đầu tấn công vào Đảng Cộng Sản Việt Nam, vào chủ nghĩa Mác-Lê. Đòi Đảng phải dân chủ hóa, đa nguyên đa đảng. Cũng bắt đầu từ giai đoạn này, một thành phần đấu tranh khác xuất hiện đã làm cho Hà Nội phải lung túng, điên đầu không biết phải đối phó ra sao? Đó là thành phần bỏ Đảng, chống Đảng với cường độ mỗi ngày một gia tăng. Từ việc lúc đầu chỉ phê bình, sửa sai, chống tham ô, đến việc đòi giải oan các vụ án, đến chấp nhận đa nguyên dân chủ…

Tại Hải Ngoại, số người may mắn ra đi trước và sau ngày 30 tháng Tư măm 1975 sau một thời gian bắt đầu ổn định, đã bắt đầu qui tụ và tổ chức lại với nhau để tìm phương cách đấu tranh cho đồng bào mình tại quê nhà. Khi hằng trăm ngàn đồng bào vượt biển, băng rừng đến được Thế giới Tự Do. Phong trào đấu tranh của đồng bào Hải Ngoại càng ngày càng đông và mạnh mẽ hơn. Đến thập niên 90, với hàng trăm ngàn tù nhân chính trị được đến định cư tại Hoa Kỳ và các nước Tự Do. Đặc biệt là khi Liên Xô và các nước Đông Âu xụp đổ, hàng chục ngàn con em cán bộ chế độ đi theo diện “ xuất khẩu lao động”, các du sinh viên đi du học ở các quốc gia Tự Do trên thế giới. Do trực tiếp sinh hoạt, tiếp cận, tìm hiểu đã hiểu được phần nào về sự khác biệt giữa một bên là chế độ Tự Do Dân Chủ ưu việt, một bên là chế độ Độc Tài Toàn Trị phản con người như thế nào; nhất là sự thật về lịch sử và tội ác của cộng sản đã được họ tuyên truyền và bóp méo ra sao! Vì vậy, một số không ít đã hòa vào dòng thác đấu tranh của Dân Tộc. Đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho quê hương. Từ đó, phong trào đấu tranh càng ngày càng phát triển lớn mạnh cho đến ngày nay.

Cộng Sản Việt Nam độc tài, phi nhân, tham nhũng, tàn bạo, sống sa đọa thác loạn trên nghèo đói, đau khổ của nhân dân ta… Nhân dân trong và ngoài nước căm thù , oán hận. Các nhà hoât động chính trị, tôn giáo, xã hội, các văn nghệ sĩ, trí thức trong và ngoài nước nỗ lực đấu tranh mãnh liệt. Các tổ chức Người Việt Hải Ngoại liên tục đẩy mạnh công cuộc đấu tranh trên các mặt trận: chính trị, ngoại giao, văn hoá, kinh tế, nhân quyền, dân chủ, tự do…Các đảng viên kỳ cựu, uy tín với Đảng nay ra tuyên bố bỏ Đảng, chống Đảng…Vậy mà Cộng Sản Việt Nam vẫn sống phây phây, chưa xụp đổ. Thậm chí nhiều người còn bi quan cho rằng: CSVN khắc hẳn CS Liên Xô và CS Đông Âu, chúng khôn ngoan và quỉ quyệt không thể nào diệt chúng được. Thực ra, vấn đề không đến nỗi bi quan như họ nghĩ, khi mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đều dùng Việt Nam như là điều kiện chiến lược khu vực.

Vì vậy, đây là một vấn đề nhức nhối mà các nhà chiến lược của các Lực Lượng Dân Tộc đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho quê hương phải nghiêm chỉnh tìm ra cho được phương cách và sách lược để giải bài toán hóc búa của Dân Tộc ngày nay.

Thực vậy, có hai lý do:

Thứ nhất, Cộng Sản Việt Nam đang yếu và yếu hơn bao giờ hết, vì nội bộ bị phân hóa do tranh dành quyền và lợi, do sự thức tỉnh của các đảng viên yêu nước, ly khai và chống Đảng. Chưa bao giờ có một triều đại nào trong lịch sử gần 5000 năn dựng nước và giữ nước của Dân Tộc ta bị nhân dân căm thù và oan hận như chế độ Cộng Sản Viẽt Nam ngày hôm nay… Trước đây, người Cộng Sản sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả quyền lợi của Tổ Quốc và nhân dân cho Đảng, vì sự tồn tại của Đảng là cứu cánh, là mục tiêu tối hậu. Nhưng ngày nay vấn đề đó đã thay đổi, sự phân hóa, chia rẽ vì tranh dành quyền lợi và quyền lực trong Đảng đã đạt đến mức tột cùng. Tổ Quốc, Dân Tộc, và kể cả Đảng chỉ còn là phương tiện được khai thác, lợi dụng để phục vụ cho quyền lợi phe nhóm, cá nhân của họ…Đó là lý do tại sao họ lại ngoảnh mặt lại với quyền lợi của Tổ Quốc, sự sống nghèo đói tủi nục của nhân dân . Họ sẵn sàng cúi đầu vâng phục bất kỳ kẻ nào, làm bất kỳ những gì kẻ đó muốn để được chúng được thống trị 83 triệu dân đã quá mệt mỏi, thất vọng, khiếp sợ đến ươn hèn vì đã phải sống qua hơn nửa thế kỷ trong lừa dối, gian manh và tàn bạo…Sự phân hóa, tranh dành quyền lực dẫn đến thanh toán lẫn nhau khiến cho những thành phần được coi là chỗ dựa của chúng như đảng viên, công an, quân đội cũng cũng không còn tin vào sự tồn tại của Đảng như trước đây nữa. Quả thực, chưa bao giờ CSVN yếu như ngày nay.

Nhưng Cộng Sản yếu tại sao nhân dân chúng ta vẫn chưa lật đươc chúng? Tại vì chúng ta lại còn yếu hơn chúng, vì chúng ta cũng chia rẽ, phân hóa, xứ quân hơn bao giò hết. Không đoàn kết lại với nhau được, cứ bôi mặt đá nhau. Miệng thì nói Tổ Quốc, Quê Hương là trên hết, nhưng khi hành động thì chỉ vì cá nhân, phe nhóm hay tổ chức của mình thôi, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để phá nhau, triệt nhau…Hậu quả là đưa đến làm mất nốt những tia hy vọng, những niềm tin heo hắt còn lại nơi những con dân còn chút tấm lòng và thiện chí. Tất cả hầu hư tuyệt vọng, khủng hoảng niềm tin, mất niềm tin, mệt mỏi, khiếp sợ và ươn hèn…chỉ còn biết phó thác cho phận trời.

Thứ hai, có lẽ lý do thứ hai mới là quan trọng : yếu tố chiến lược của các siêu cường, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ và Trung Quốc, khi mà họ còn xử dụng Việt Nam chúng ta như là điều kiện chiến lược khu vực để thương lượng.

Thực vậy, Trung Quốc đã và đang xử dụng Việt Nam như là bàn đạp để bành trướng xuống Đông Nam Á. Với áp lực về kinh tế, tài chánh, quân sự… với mạng lưới tình báo tràn ngập Việt Nam, vào tận trung ương, từ Bộ Chính Trị xuống hạ tầng cơ sở… Việt Nam đang là một tỉnh của Trung quốc được ngụy trang một cách vụng về! Hành vi cho phép người dân Trung Quốc được phép tự do đi lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đến bất cứ nơi nào trên đất Việt Nam … Việc Hà Nội cúi đầu vâng lệnh Thiên Triều xây 11 cây cầu qua sông Hồng, mở xa lộ xuống cảng Hải Phòng, xây dựng xa lộ chiến lược Trường Sơn, lập nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Miền Trung, xây dựng phi cảng ở Trường Sa, dâng đất hiến biển cho Trung Quốc v.v…để tạo phương tiện cho trung Quốc tràn xuống phía Nam là hành vi biểu lộ sự cúi đầu tuân phục Thiên Triều Phương Bắc, can tâm mãi quốc cầu vinh.

Nhưng đụng đến Đông Nam Á là đụng đến quyền lợi sinh tử của Hoa kỳ. Sau khi Hoa Kỳ thực hiện được Liên Minh chống khủng bố toàn thế giới, củng cố, tăng cường và mở rộng Khối NATO. Đặc biệt là lôi kéo nước Nga, Ấn Độ, Pakistan đứng về phía Liên Minh với Hoa Kỳ. Giải quyết xong vấn đề Trung Đông, Hoa Kỳ sẽ quay sang nói chuyện với Trung quốc với đầy đủ những bằng chứng lý và tình. Trung Quốc chỉ còn có 2 con đường để lựa chọn:

Hoặc là chấp nhận chung sống hòa bình thì Trung Quốc phải chấm dứt chi viện, giúp đỗ, huấn luyện, cung cấp quân trang quân dụng, tài chánh… cho các tổ chức khủng bố, các nhóm nổi loạn trên thế giới, các chế độ độc tài, quân phiệt, trong đó có Việt Nam. Kampuchia, Miến Điện, Bắc Hàn…. Đặt biệt là phải chấm dứt chuyển nhượng vũ khí và kỹ thuật sản xuất vũ khí giết người hàng loạt ( Sinh hoá, nguyên tử…) cho các tổ chức và quốc gia bất hảo trên thế giới. Có nghĩa là chấp nhận xu thế tất yếu của nhân loại là Dân Chủ Hóa và tự do hóa kinh tế toàn cầu.

Hoặc là họ phải đương đầu với một cuộc chiến toàn diện về mọi mặt, từ kinh tế, tài chánh đến quân sự…Việc tăng cường, mở rộng Khối NATO cho Nga, các nước Đông Âu và các nước Cộng Hòa vùng Baltique cho thấy rõ quyết tâm của Hoa Kỳ và Phương Tây trong sách lược nhất quán của Hoa Kỳ và Phương Tây. Khi ấy hàng trăm triệu công nhân Trung Quốc sẽ thất nghiệp, hàng hóa sẽ ứ đọng, tồn kho. Nhân dân Trung Quốc sẽ nổi dậy, xuống đường đòi quyền sống, đòi công ăn việc làm…đòi tự do, dân chủ, nhân quyền… và độc lập. Khi ấy, Trung Quốc sẽ bị phân hóa thành nhiều quốc gia nhỏ, mỗi nước sẽ có một lãnh chúa ngự trị như cách đây ngàn năm về trước. Lúc đó, Liên Hiệp Quốc trong đó có cả quân đội của Hội Đồng NATO-NGA ồ ạt kéo vào giải giới, giữ gìn an ninh trật tự, ngăn ngừa các xung đột địa phương. Và dĩ nhiên cũng kiểm soát luôn các hỏa tiễn liên lục địa, đầu đạn hạt nhân, bom nguyên tử v.v…để tránh hậu họa cho thế giới sau naỳ.

VI.VẤN ĐỀ CỦA CHÚNG TA:

Đứng trước bối cảnh thế giới, khư vực và quốc gia nhu vậy. Con dân Nước Việt không phân biệt Quốc Nội hay Hải Ngoại, chúng ta phải làm gì?

Đồng bào Hải Ngoại cho rằng, Hải Ngoại chỉ là phụ, chỉ đóng vai trò hỗ trợ, đồng bào Quốc Nội mới là chính. Đồng bào Quốc Nội phải nổi dậy… Đối với đồng bào Quốc Nội thì cho rằng họ đang ở trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn như vậy. Đồng bào Hải Ngoại với mọi thuận lợi về an ninh, kinh tế, tài chánh, ngoại vận, tiếp cận thế giới bên ngoài, am tường đường lối chiến lược của các siêu cường… phải là đầu tầu cho cuộc đấu tranh vì đại nghĩa dân tộc này. Thế là Hải Ngoại trông chờ ở Quốc Nội, Quốc Nội trông chờ ở Hải Ngoại. Cộng Sản Hà Nội cứ tiếp tục thống trị với mọi thủ đoạn ru ngủ, lừa lọc của chúng. Hiện tượng ghê sợ này được Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh gọi là " Hội chứng đợi chờ “.

Chúng ta phải bình tâm mà suy nghĩ lại. Tai sao tổ tiên chúng ta đã bao nhiêu lần anh dũng đánh tan lũ giặc Đại Hán bá quyền phương Bắc gìn giữ được giang sơn gấm vóc cho con cháu đến ngày nay? Vì vua quan, quân dân đoàn kết một lòng, cho nên khó khăn mấy cũng vượt qua và kẻ thù dù có hung hãn, ác độc đến mấy cũng đã đánh thắng. Vì vậy, bài học đầu tiên vẫn phải là bài học đoàn kết. Làm sao để chúng ta có thể đoàn kết được trong khi mọi người vẫn còn đang toan tính hơn thiệt cho cá nhân, phe nhóm hay tổ chức của mình? Như vậy, con người là khởi điểm quan trọng nhất. Muốn chiến thắng kẻ ngoại thù, trước hết chúng ta phải thắng kẻ nội thù đang ở trong chính bản thân chúng ta đã. Kẻ nội thù đó chính lá cái tôi hèn mọn, xấu xa. Chính nó đã, đang và có thể còn tiếp tục chế ngự chúng ta mãi mãi, nếu chúng ta không tự chiến thắng được chúng. NÓ là gì?

Nó chính là lòng tự kiêu, ngạo mạn, đầy ích kỷ và nhỏ mọn. Nó cũng chính là
bản chất háo danh, dẫn đến tranh danh đoạt lợi. Vì ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, thiển cận, lại luôn luôn tranh danh đoạt lợi nên sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để bôi lọ triệt hạ lẫn nhau nên không ai chịu ai. Người dân phải chứng kiến mãi cái cảnh nhiễu nhương này, không biết đâu là vàng đâu là thau. Cho nên từ nghi ngờ, thờ ơ đến xa lánh cuộc đấu tranh, mặc dù họ không bao giờ thích cộng sản. Thành ra các tổ chức thì nhiều, nhưng lực thì chẳng có bao nhiêu, chống cộng thì ít chống nhau thì nhiều.

Cho nên, mỗi con người chúng ta, mỗi hội đoàn, tổ chức, đảng phái, kể cả tôn giáo…cần phải thực tâm xét lại chính mình, xem mình đã thực tâm hết mình vì dân vì nước không? Tổ Quốc và Nhân Dân có thực sự là tối thượng không? Nói thì dễ lắm! Nếu thực sự là như vậy hãy dẹp bỏ mọi dị biệt ngồi lại với nhau đi trước khi kêu gọi người dân cùng ngồi lại với mình để mình lãnh đạo?! Chỉ cần các nhà lãnh đạo ở Hải Ngoại này ngồi lại được với nhau là đã làm lên lịch sử rồi, bài toán đã giải quyết được gần một nửa rồi. Gần 30 chục năm sống tại các quốc gia dân chủ trên thế giới, Người Việt Hải Ngoại thụ hưởng và học hỏi được nhiều từ nền Dân Chủ, nhưng tiếc thay lại chưa áp dụng được tinh hoa của nền Dân Chủ cho chính Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại của mình. Thế thì làm sao chúng ta đòi đem nền Dân Chủ về để áp dụng và xây dựng cho quê hương Việt Nam chúng ta?! Làm sao chúng ta thuyết phục được đồng bào chúng ta ở trong nước tin vào nền Dân chủ, tin vào khả năng kiến thức về nền Dân Chủ của chúng ta?! Quả là một nghịch lý?! Thực vậy, chúng ta không thể cho những gì mà chúng ta không có, và càng không thể dạy những gì mà chúng ta không biết.

Là người Việt đang sinh sống tại Hải Ngoại, chúng ta có bổn phận phải dành chút thỉ giờ quan tâm đến sinh hoạt của cộng đồng, sinh hoạt của quốc gia… Để biết ai, tổ chức nào là những con người, những tổ chức đứng đắn, có chương trình hoạt động thiết thực, có nhiệt tâm, nhiệt tình thực sự mà khuyến khích, động viên hay hỗ trợ họ. Mỗi người phải tự rèn luyện, học hỏi biến mình trở thành một chiến sĩ Dân Chủ, sẵn sàng làm chứng và giới thiệu về thành tựu, lợi ích của chế độ Dân Chủ như là điều cần và đủ để xây dựng và phát triển đất nước.

Riêng đối với các bạn thuộc diện “ Xuất cảng lao động” hay du sinh viên, các bạn cần nên dành nhiều thì giờ hơn cho việc nghiên cứu tìm hiểu về chế độ Dân Chủ để tự trau dồi cho mình trở thành những người cán bộ của Dân chủ, các bạn là thế hệ hậu duệ có trình độ và kiến thức… tiếng nói của các bạn dễ được lắng nghe và đón nhận hơn bất cứ thành phần nào khác đối với nhà cầm quyền và nhân dân trong nước. Các bạn hãy can đảm dám nói lên sự thật về những gì mắt thấy tai nghe, sự thật về chế độ, sự thật về lịch sử…Chỉ cần các bạn dám làm chứng cho sự thật thôi là cá bạn đã làm nên lịch sử rồi, không cần các bạn phải thêm bớt hay vo tròn bóp méo. " Đừng bao giờ nói dối một điều gì mà bạn không tiên liệu đuợc để rồi sau này phải dùng cả ngàn lần nói dối khác biện minh cho lần nói dối ban đầu”. (Alexander Pope). Hãy tận dụng những thuận lội mà chỉ riêng các bạn mới có.

Đối với người dân trong nước, cho dù có lam lũ vất vả đến đâu chăng nữa cũng hãy cố dành thì giờ tìm hiểu, suy nghĩ về chính thân phận mình, thân phận quê hương và tự đặt những câu hỏi tại sao và tại sao? Hãy can đảm gĩa từ mọi sợ hãi, ươn hèn và khiếp nhược. Hãy tin tưởng vào chính mình, vào sự phục hoạt, sự hồi sinh của một dân tộc có một nền văn hiến kỳ cựu nhất trong các nền văn hiến kỳ cựu trên thế giới. Đừng hành động bất đồng theo cảm tính, hãy chuẩn bị cho một cuộc đổi đời vô tiền khóang hậu chưa từng có lịch sử dân tôc. Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền… không thể tự nhiên mà có, nó càng không thể van xin mà có được. Nó đòi chúng ta phải kiên trì phấn đấu, hy sinh gian khổ, đôi khi phải hy sinh bằng máu và nước mắt… Đừng cam phận làm giun dế rồi than trách người ta đã đè đầu cưõi cổ mình. Chỉ có Dân chủ và Tự do nhân dân ta mới được sống đúng với phẩm gía của con người, chỉ có Tự do và Dân chủ nhân dân ta mới được sống trong phú cường và hạnh phúc.

Đối với các bạn thuộc Công An và Quân Đội, các bạn là công an và quân đội của Tổ Quốc, của Nhân Dân. Các bạn có bổn phận phải bảo vệ từng tấc đất, tấc biến và bầu trời của Tổ Quốc, cũng như sự an toàn và sinh hoạt của nhân dân. Các bạn bởi nhân dân mà ra, vì nhân mà có…Các bạn hãy can đảm đứng lên trị tội những kẻ đã mãi quốc cầu vinh, và khi người dân đứng lên hỏi tội những kẻ phản dân bán nước, các bạn phải đứng về phía nhân dân.

Dân chủ hóa toàn cầu, trong đó có Việt Nam, là sách lược của Hoa Kỳ, là xu thế thời đại không thể đảo ngược. Tiến trình đó đến nhanh hay chậm là tùy thuộc vào những người CSVN, những người đang nắm vận mệnh Dân Tộc. Nếu họ thực tâm đặt quyền lợi Dân Tộc lên trên hết, quay trở về với Dân Tộc thì là đại phước cho Dân Tộc. Tiến trình đó nhanh hay chậm cũng tùy thuộc vào toàn dân chúng ta. Nếu chúng ta thực tâm vì Dân Tộc, chúng ta phải gạt bỏ mọi tỵ hiềm, tham vọng riêng tư, thống nhất thành một KHỐI, thành một cơ cấu chính danh, can đảm tiên phong nhận lãnh trách nhiệm lịch sử. Tiến trinh đó nhanh hay chậm cũng còn tùy thuộc vào diễn biến tình hình thế giới và khu vực. Nhưng cho dù tình hình có diễn biến ra sao, việc đoàn kết thống nhất dân tộc luôn luôn là ưu tiên hàng đầu trong đấu tranh cũng như trong xây dựng.

Nói dân chủ hóa toàn cầu là sách lược của Hoa Kỳ, là xu hướng thời đại của nhân loại là vì: có dân chủ thì khủng bố mới hết đất dung thân, tài nguyên quốc gia mới được phân phối hợp lý và công bằng cho toàn dân thì cuộc sống người dân mới được ấm no và hạnh phúc, nhân loại mới được sống trong hòa bình và thịnh vượng.

Riêng đối với Việt Nam, Hoa Kỳ muốn Việt Nam có dân chủ để sự hy sinh của trên 58,000 binh lính Mỹ của họ tại Việt Nam có ý nghĩa, đồng thời trả lại danh dự cho họ và gia đình của họ. Việt Nam có dân chủ Hoa Kỳ mới hóa giải được nỗi uất hận của quân dân Miền Nam Việt Nam đói với Hoa kỳ vì đã phản bội và bỏ rơi họ. Các nước trên thế giới cũng muốn Việt Nam có dân chủ để họ được bảo đảm và yên tâm làm ăn tại Việt Nam.

Như vậy, dân chủ không những là khát vọng của các dân tộc đang sống dưới các chế độ độc tài, dân chủ còn sách lược của hoa Kỳ để chấm dứt tai họa khủng bố, còn là xu thế thời đại để nhân loại được sống trong tự do, hòa bình, phát triển và hạnh phúc.

Bằng tinh thần đoàn kết một lòng, bằng ý chí kiên cường và bất khuất với óc sang tạo tuyệt vời… Tổ Tiên Cha Ông chúng ta đã đánh thắng mọi kẻ thù để dựng nước và giữ nước cho chúng ta đến ngày nay, dù kẻ thù ấy có hung hiểm, ác độc và tàn bạo đến đâu. Bài học nói thật dễ, nhưng làm thì thật là khó. Chỉ có mỗi người chúng ta phải thành tâm xám hối, cùng nhau tự chiến thắng chính kẻ nội thù nơi mình để chiến thắng hai kẻ ngoại thù, đó là CSVN bán nước, độc tài và bọn bành trướng Đại Hán Bắc Phương.


Nguyễn Đình Toàn
*
***
*
GiaiPhapLBDNAC

Aucun commentaire: