mercredi 27 juin 2007

NHÌN LẠI NHỮNG CHUYẾN CÔNG DU CỦA CSVN ...

NHÌN LẠI NHỮNG CHUYẾN CÔNG DU BÁN NƯỚC CỦA CSVN,
TỪ HỒ CHÍ MINH TỚI PHAN VĂN KHẢI VÀ NGUYỄN MINH TRIẾT

MƯỜNG GIANG

Tháng 5-1989, khắp nước Tàu rung chuyển trước phong trào đòi dân chủ của giới trẻ và sinh viên học sinh, chống lại chủ nghĩa khủng bố cùng bọn lãnh tụ già nua tham quyền háo lợi chóp bu đảng. Bất chấp nguyện vọng và quyền sống của dân nước cùng dư luận của thế giới, Ðặng Tiểu Bình đã tàn nhẫn ra lệnh cho quân đoàn 27 phối hợp với công an, bộ đội Bắc Kinh, dùng xe tăng, trọng pháo, các loại súng liên thanh, trực xạ xối xả vào đám đông đang biểu tình đòi quyền sống, trong tay không có vũ khí. Cuộc thảm sát đã giết chết hằng vạn đồng bào mình, vào ngày 4-6-1989, biến quảng trường Thiên An Môn thành cảnh núi xác sông máu, đã làm hiện nguyên hình lũ bạo chúa thời đại của thiên đàng vô sản chuyên chính, để cho nhân loại nguyền rủa đời đời. Nhưng bạo tàn xưa nay sớm muộn gì cũng bị tiêu diệt, bởi vậy các chế độ cộng sản tại Ðông Âu đua nhau sụp đổ vào năm 1989.

Trong lúc chính thành đồng Mác-Lê Liên Xô cũng đang tơi tả vì bánh xe lịch sử đã xoay chuyển một cách quá bất ngờ, thì tại Lỗ Mã Ni vào ngày 2-8-1989, trước nhiều ký giả Tây Phương, vợ chồng bạo chúa Nicolae Ceausescu, vẫn láo xược thách thức với nhân loại, rằng xã hội chủ nghĩa sẽ bách chiến bách thắng... Rồi cũng như tại Thiên An Môn mấy tháng trước, Caeusescu ra lệnh cho công an, mật vụ dùng trực thăng, xe tăng, súng các loại, tàn sát tất cả những người biểu tình phản đối, trong đó có rất nhiều người già, đàn bà và trẻ nít. Trước cảnh bắn giết người dân vô tội khắp nơi, mà đẳm máu nhất tại thành phố Timiosara, nên quân đội Lỗ đã phải đứng dậy, sát cánh cùng với toàn dân, tiêu diệt bầy ưng khuyển công an-mật vụ, treo cổ vợ chồng tên đồ tể Ceausescu, chấm dứt chế độ độc tài cộng sản tại nước này.

Bài học lịch sử đã quá rõ ràng, cho thấy xưa nay "tự do được cho không" hoàn toàn chỉ là đồ giả mạo, nên người dân bất cứ ở đâu, muốn hưởng được tự do, dân chủ thật sự, thì phải dấn thân đấu tranh để giựt dành lấy nó. Ðây là động cơ chính, đã thúc đẩy triệu triệu người Việt cả nước, trong ba mươi hai năm qua, kể từ ngày bị sống dưới ách nô lệ mới của đảng Cộng Sản, phải liều chết vượt biển tìm tự do, đồng thời tranh đấu không ngừng nghỉ, cho nền dân chủ thật sự của đất nước, qua khắp các nẻo đường lưu vong nơi hải ngoại. Tóm lại chừng nào VN còn độc tài khủng bố, ngày đó người Việt vẫn còn đấu tranh không ngừng, bởi vì đây là cuộc cách mạng đúng nghĩa của tuyệt đại đa số đồng bào thầm lặng không hề có tham vọng chính trị, trong đó có rất nhiều người lính già Miền Nam và con cháu của họ dấn thân tham dự.

Năm 1978, tướng Ion Mihai Pacepa, trưởng cơ quan tình báo Lỗ, cũng là người rất được vợ chồng Ceausescu tín nhiệm hết mực nhưng không biết vì lý do gì, đã bỏ đảng, chạy vào Sứ quán Hoa Kỳ tại Bonn (Tây Ðức), để xin tị nạn chính trị, đồng thời viết hồi ký công bố tội ác của đảng cộng sản Lỗ. Nhờ vậy thế giới văn minh mới phần nào biết được chuyện thâm cung bí sử nơi thiên đàng xã nghĩa, trong đó có chuyến công du "thăm Hoa Kỳ" của vợ chồng Ceausescu vào năm 1978. Cũng qua hồi ký trên mới biết, từ năm 1972 đảng cộng sản Lỗ đã phát động một chiến dịch có tên "Chân Trời", nhằm mục đích tuyên truyền dụ dỗ các nhà tư bản Tây Phương nhẹ dạ, qua lợi nhuận hứa hẹn cùng vàng bạc mua chuộc, để giúp đảng đề cao hình ảnh lãnh tụ "Ðộc tài khát máu Ceausescu", trên các diễn đàn kinh tế và chính trị quốc tế. Cuối cùng tên khát máu cũng đã đạt được mục tiêu chiến lược, qua các cuộc gặp gỡ, móc nối với đủ loại thủ lĩnh, từ nguyên thủ quốc gia cho tới các bố già xếp trùm buôn lậu khủng bố quốc tế, mà đỉnh cao là cuộc gặp mặt tổng thống Mỹ lúc đó là J.Carter, tại Tòa Bạch Ốc vào năm 1978.

Muốn thì dễ nhưng tất cả phải thuận theo lòng trời ý dân, nên lũ bạo tàn hại dân bán nước, đâu có bao giờ đạt được tham vọng. Bởi vậy khi máy bay vừa tới phi trường quốc tế Kennedy tại New York, vợ chồng tên độc tài đã được hơn 5000 người Hung và Lỗ tị nạn, dàn chào biểu tình la hét đã đảo, ngay trước cửa Waldorf Astoria, lối ra khỏi sân bay, dẫn về thành phố Nữu Ứớc. Báo hại đoàn xe phải dùng đường hầm ngã hậu, mới thoát được trận cuồng nộ trùng trùng của kiều bào. Tại khách sạn nơi phái đoàn Lỗ dừng chân, một rừng người biểu tình khác, cũng đông đảo không thua gì tại phi trường, gần như bít hết mọi lối vào, với vách biểu ngữ, biển cà chua, trứng thối và bão âm thanh, cuồng nộ, gào thét, đả đảo như xé tan bầu trời nước Mỹ, khiến cho pho tượng Nữ Thần Tự Do cũng xao động vì phải chứng kiến sự biến thái của chính quyền Mỹ lúc đó chỉ vì lợi mà đánh mất cái danh dự của một nước đang dẫn đầu khối thế giới tự do.

Trên đường về, chiếc xe Cadillac màu đen của vợ chồng bạo chúa nước Lỗ, được cà chua trứng thối nhuộm thành màu đỏ máu. Ngay lúc xe vào được bên trong, vẫn còn bị đoàn biểu tình ngăn lối, may nhờ có một lực lượng hùng hậu gồm cận vệ Lỗ, FBI và cảnh sát Mỹ tận tâm bảo vệ, mới đưa được vợ chồng tên khủng bố lên phòng, lúc đó gần như chỉ còn là hai cái thây người không hồn, vì quá sợ hãi, trước đám đông muốn phanh thây xé xác mình.

"Tên giết người, tên tội phạm! Ceausescu, Idi Amin" những tiếng la hét đả đảo cộng sản khát máu, được khuếch đại qua loa phóng thanh, từ dưới phố tràn vào căn phòng ngủ của vợ chồng bạo chúa, cao tít tận tầng lầu 28, khiến không ai nuốt trôi vào miệng, những món cao lương mỹ vị dành cho bữa ăn tối, do chính đầu bếp của đảng, mang từ Lỗ sang nấu nướng trong khách sạn. Mọi thức ăn uống của Vua và Hoàng hậu đỏ, trước khi dọn lên bàn ăn trong phòng ngủ, cũng đã được viên tướng quân y tên Popa, kiểm tra, khử độc và nếm thử nhiều lần bằng máy móc cũng như miệng mình.

Rõ ràng lích sử đã tái diễn tại nước Mỹ, năm 1978 vợ chồng tên độc tài cộng sản khát máu nước Lỗ bị đồng bào mình, làm cho nhục nhã nơi xứ người. Ba mươi bảy năm sau, từ 19-6-2005 tới 25-6-2005, Phan Văn Khải, Thủ tướng, đại diện cho đảng cộng sản, bạo tàn tham nhũng, đang hà khắc cai trị nước VN bằng thủ đoạn của kẻ xâm lăng chiếm đóng, đồng thời cũng là một thương nhân đứng đầu tập đoàn tư bản đỏ, gồm thiểu số cán bộ đảng và đám Việt gian, Việt kiều xu thời hám danh tham lợi đang a dua hợp tác và nịnh bợ kẻ thù chung của dân tộc. Chúng hiện là thành phần giàu có nhất nước với tiền tỷ núi vàng, tới Hoa Kỳ với mục đích như vợ chồng bạo chúa nước Lỗ thuở trước, qua lớp vỏ hào nhoáng ngoại giao nhưng thực chất là tung tiền kiếm được bằng tham nhũng, bán nước, buôn dân VN, để mua dư luận báo chí truyền thông, để vừa đánh bóng đảng cầm quyền, vừa rao món hàng 80 triêu lao động trong nuớc, hầu xin Mỹ gật đầu cho vào WTO. Tại đây, Y và đoàn tuỳ tùng đông đảo hơn vài trăm nguời, từ chủ cho tới đầy tớ, tên nào mặt mũi cũng no tròn, quần áo bảnh bao, ngự trên những chiếc xe hơi sang đẹp đắt giá. Ðó là tiền vàng mà đảng kiếm được, từ máu thịt, mồ hôi nước mắt của đồng bào và từng tấc đất quê hương đem dâng bán cho ngoại bang trong ba mươi năm tạo thành. Ðoàn Việt Cộng-Việt Gian, từ ngày đầu tiên tới Mỹ 19-6-2005, cho tới khi rời Hoa Kỳ sang Canada 25-6-2005, nơi nào kể cả Toà Bạch Ốc, thủ tướng cũng như phái đoàn của đảng VC, đều bị đồng bào mình đã đảo, khinh miệt và lột mặt nạ nói láo, sát nhân, trước người Mỹ và dư luận thế giới. Ðiều kỳ lạ nhất, trong sự chống đối Phan Văn Khải qua chuyến đi này, hầu hết những người tham dự, có rất nhiều trí thức trẻ, trình độ văn hóa cao và độc lập bản thân. Họ thuộc thế hệ VN thứ hai, dù sinh tại quê nhà hay trên đất Mỹ, vẫn không dính dáng tới cuộc chiến Ðông Dương lần 2, nên chẳng ảnh hưởng gì tới sự tranh chấp ý thức hệ của cha ông, mà tới đây chỉ vì lý tưởng của dân tộc. Ngoài ra là đồng bào tị nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới, những nạn nhân từng bị chế độ khủng bộ sát nhân của Phan Văn Khải, hành hạ bốc lột tận xương tuỷ nơi quê nhà.

Tất cả biểu tình chống tên đầu xỏ đại diện cho VC, tập đoàn thực dân mới, với mục đích chính thay mặt cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước, hiện không có miệng để đòi lại tự do dân chủ đã mất từ năm 1975, quyền làm người và miếng cơm manh áo, mà họ đang phút giây làm trâu bò người, để cho đảng cộng sản, Khải và bọn Việt Gian Việt Kiều lợi dụng xương máu qua mũi súng, được sang giàu tuyệt đỉnh trong mấy chục năm qua. Sự may mắn của tập đoàn VC là ở đâu trên đất Mỹ, chúng cũng được đồng đô la bảo vệ chặt chẽ, nên không hưởng được những sự căm thù nguyền rủa tận mặt của hằng trăm ngàn nạn nhân, như tên Trần Trường từng nếm trong quá khứ. Tóm lại, người Việt bây giờ không giống như trước năm 1975, qua kinh nghiệm cả trăm lần, bị lừa bịp khủng bố bốc lột, nên đã không còn ai, kể cả đảng viên hiện sống trong nước, tin nghe những lời láo hứa và tuyên truyền rẻ mạt của VC hay những đài, báo tiếng Việt ở hải ngoại, ham tiền đang làm công cụ cho kẻ bạo tàn.

Suốt một thập niên qua, khi thế giới đi vào xu hướng toàn cầu hóa thì chủ nghĩa khủng bố cũng thay đổi bộ mặt và là công cụ phục vụ cho bọn lãnh đạo độc tài khắp năm châu, trong đó có đảng VC. Tại Hoa Kỳ sau biến cố lịch sử 9-11-2001 làm sụp đổ hai tòa cao ốc tại khu thương mại quốc tế ở New York, thì Tổng thống W.G.Bush luôn nói tới việc diệt trừ khủng bố mà ai cũng đã thấy qua các cuộc chiến tại A Phú Hản, Iraq, Phi Luật Tân... vừa giúp Hoa Kỳ nhổ cỏ tận gốc tổ chức khủng bố Al-Qaeda, mà còn có cớ trở lại vùng Ðông Nam Á Châu, để lập lại những căn cứ chiến lược đã bỏ trống, từ sau khi rút khỏi Nam VN, với mục đích ngăn chống sự bành trướng của Trung Cộng xuống khu vực. Trong chiến lược toàn cầu này, CSVN được cả Trung Cộng và Hoa Kỳ để ý tới vì bản chất chịu làm đầy tớ bất cứ ai, miễn các ông chủ chịu bỏ tiền mướn thích đáng và trên hết là phải hứa bảo vệ mạng sống cá nhân cho lãnh tụ và sự tồn tại của đảng.

Ðó là lý do Hoa Kỳ đã chon liên minh quân sự với kẻ thù VC, qua lời tuyên bố công khai của đại sứ Mỹ tại VN là Marine vào ngày 3-2-2007. Sau đó còn chọc tức Trung Cộng, khi bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí, để VC từ nay tha hồ mua chịu quân nhu đạn dược của lái súng Hoa Kỳ, giúp tối tân quân đội VN vốn đã tuột dốc thê thảm vì tham nhũng, nên mạnh ai nấy làm giàu đâu còn ai ngu như trước năm 1975 bị đảng tuyên truyền đầu độc. Có thể vì vậy, mà đương kim Tổng thống Mỹ bất chấp dư luận phê phán của thế giới, quên hết những lời tuyên bố mạnh mẽ trước kia là chống các chế độ chuyên chế, độc tài. Ông cũng là người hăng hái nhất vực dậy cái xác chết chưa chôn của đảng CSVN, bằng hành động tô son đánh phấn, cho chủ nghĩa toàn trị, qua các thái độ thật đột ngột, khiến ai cũng phải khựng điếng, trước những ban phát liên tiếp nhiều ân huệ, của Tổng Thống W.Bush, dành cho đảng CSVN, từ việc bỏ tên Bắc Bộ Phủ ra khỏi danh sách CPC để đảng có điều kiện tổ chức hội nghị APEC tại Hà Nội với sự hiện diện của nhiều nguyên thủ quốc tế trong đó có Mỹ. Kế tiếp là cho qui chế PNTR và sau cùng được gia nhập WTO, coi như những thắng lợi vàng ròng, giúp đảng VC vẻ vang trên các diễn đàn ngoại giao quốc tế. Vì vậy, nên Mỹ đã làm ngơ trước sự bạo tàn của đảng, để chúng mặc sức khủng bố đồng bào và những người đang đấu tranh đòi hỏi tự do và dân chủ trong nước, từ cuối năm 2006 tới nay.

Năm 1949 Trung Cộng đánh đuổi Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Ðảng chạy ra đảo Ðài Loan, chiếm Hoa Lục. Ngày 10-1-1950 là nước đầu tiên công nhận chính phủ VN dân chủ cộng hòa của Hồ Chí Minh. Lập tức Hồ bí mật sang Tàu triều kiến Mao Trạch Ðông xin viện trợ và bảo hộ, cũng như tăng viện quân tướng giúp Hồ đánh Pháp và tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia trong nước, đang chống Cộng Sản qua lớp son Việt Minh. Vì vậy từ đó về sau, ngày này được Hồ bắt cả nước gọi là quốc lễ, cũng là cái mốc lịch sử đánh dấu giai đoạn VN lại bị Bắc Thuộc lần thứ 5, kéo dài tới nay vẫn chưa bứt nổi xiềng xích nô lệ do đảng CS và Hồ mang về. Lịch sử lại tái diễn nhiều lần, trải dài suốt triều đại xã nghĩa. Có điều những chuyến đi ăn mày ngoại bang của Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Ðỗ Mười, Võ Nguyên Giáp, Lê Ðức Anh, Nông Ðức Mạnh... rất bí mật và được dấu kỹ, nên không biết chuyện gì đã xảy ra. Trái lại, hai chuyến sang Mỹ của Phan Văn Khải vào tháng 6-2005 và Nguyễn Minh Triết hiện nay, cũng thậm thụt lén lút vì những mục đích bất chính, bán nước, buôn dân, làm nhục quốc thể, đã làm cho nước Mỹ lẫn người Việt hải ngoại chống đối và khinh miệt.

Riêng những người lính già Miền Nam hiện còn sống sót tại hải ngoại, lần nữa lại phải nuốt nước mắt đắng cay, nhắm mắt nhận nhục hờn trước hình ảnh Nguyễn Cao Kỳ bí xị, méo mó, dù được xếp ngồi chung bàn với Nguyễn Minh Triết, qua giới thiệu đầy trào phúng của báo chí "cưụ thiếu tướng tư lệnh Không Quân, cựu Thủ Tướng và Phó Tổng Thống VNCH".

Nhìn lại quân sử thế giới từ mấy ngàn năm qua, có thể nói được duy nhất chỉ có Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuy tồn tại rất ngắn ngủi (1955-1975), vì hoàn cảnh bắt buộc phải buông súng nhưng không đâu hàng, rã ngũ và là quân đội duy nhất đã có tới Năm Vị Tướng Lãnh : Pham Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyễn Vỹ và Trần Văn Hai, đã Tuẫn Tiết trước giặc thù xâm lăng, làm rạng danh nòi giống Lạc Hồng. Cho nên QLVNCH làm gì có những tên phản tặc vô liêm sỉ đứng trong hàng ngũ như Nguyễn Cao Kỳ, từ trước tới nay chỉ tuyên bố bậy bạ như kẻ mất trí, mà mới đây trong bữa tiệc máu chiều ngày 22-6-2007 tại Nam CA, vì để bợ chủ là Nguyễn Minh Triết đang có mặt tại chỗ, Kỳ không được mời nhưng tự mò tới và nổi điên lên phát biểu "bài nói của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gây xúc động lớn đối với tôi... và có thể rất cảm động... tôi là một thứ biểu tượng của một bộ phận khác bên này của người Việt. Vì vậy sự hiện diện của tôi ngày hôm nay, sau khi trở về VN, tôi muốn nói với đồng bào VN (?), đặc biệt những người từng chiến đấu dưới sự chỉ huy của tôi (?) là Ngày hôm nay, mọi bất hòa đã chấm dứt (?)‘

Hèn như vậy, nên Kỳ phải sống chung với VC thì cũng đâu có gì lạ ?


+ QUAN HỆ MỸ VIỆT CỘNG : NỖI Ô NHỤC TRONG DÒNG VIỆT SỬ CẬN ÐẠI:

Ngay từ thời Hồ Chí Minh còn làm trùm đất Bắc, dù đã tôn thờ chủ nghĩa Lê-Mác và luôn hướng về Mạc Tư Khoa như đất tổ nhưng vẫn nỗ lực đu giây giữa hai nước đàn anh Nga-Tàu, để kiếm viện trợ và sự ủng hộ trên các diễn đàn chính trị quốc tế. Nhưng cả Nga lẫn Tàu, thật sự chỉ muốn lợi dụng VC và đều nghĩ tới quyền lợi của mình trước hết. Bởi vậy đâu có ai ngạc nhiên, khi biết năm 1963, Khrushchev đã cực lực chống Bắc Việt, mở cuộc chiến tranh tại Miền Nam, vì lúc đó Nga đang hòa hoãn với Mỹ trong chiến tranh lạnh, qua kế hoạch giảm bớt số lượng bom nguyên tử. Tương tự vào năm 1972, cả Nga lẫn Trung Cộng vì đang giao hảo tốt với TT. Richard Nixon, nên để mặc cho Mỹ oanh tạc Bắc Việt khủng khiếp. Quan trọng nhất, là dưới con mắt của hai đàn anh lớn, VC vẫn luôn bị nghi ngờ là phương xét lại, lật lọng, láu cá, phản phúc không thể tin tưởng. Ðó là lý do khiến cho Hà Nội phải bắt cá ba tay, khi quay ra làm quen với các nước Ðông Nam Á, Nhật, Âu Châu và kẻ thù không đôi chung là Hoa Kỳ.

Tháng 9-1976, VC được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund ố IMF). Vì là nước cộng sản đầu tiên được vào tổ chức này, nên VC đã bị Nga và cả khối phản đối dữ dội vì bị cho là đi lệch hướng, khi chia xẻ bí mật quốc gia cho kẻ thù. Ngoài ra vì đang đi dây giữa nhiều thế lực để kiếm lợi, nên VC đã từ chối không gia nhập Khối Kinh Tế Ðông Âu (Comecon), nên bị Mạc Tư Khoa huỷ bỏ nhiều dự án hứa giúp VN lẫn quân viện, kể cả gạo viện trợ của Trung Cộng cũng bị cúp luôn. Tóm lại bắt đầu năm 1977, VC hoàn toàn bị cô lập trước thế giới, đồng thời cũng kẹt cứng trong mối liên hệ an ninh quốc gia, giữa Khmer Ðỏ và Trung Cộng.

Ngày nay qua núi sử liệu trong và ngoài nước đã bật mí, ta mới biết được VC ngoài miệng lúc nào cũng nói chống Mỹ, Tây Phương, Nhật, Tư Bản nhưng trong tận cùng tim óc lại rất thèm thuồng sự bang giao với họ, nhất là kẻ thù không đội trời chung Hoa Kỳ. Bởi vậy, khi Sài Gòn bị cưỡng chiếm trưa 30-4-1975, thì chỉ hai tháng sau, VC đã trân trọng mời hai ngân hàng lớn của Mỹ trở lại VN, để bàn thảo phát triển kinh tế và thương mại. Riêng với Hoa Kỳ, từ sau cuộc chiến Ðông Dường lần 2 kết thúc, càng mệt mỏi thất vọng vì sự tháo chạy nhục nhã tại VN, cộng thêm vụ Watergate, nên đã bầu Jimmy Carter, xuất thân đại điền chủ trồng đậu phụng ở miền Nam, thuộc đảng Dân Chủ, làm tổng thống. Là một người hiền lành đạo đức lại ngoan đạo, nên Carter nghĩ rằng muốn xóa bỏ hội chứng VN trong lòng người Mỹ, tốt nhất là thiết lập ngoại giao cũng như bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Hơn nữa, giữa hai cưụ thù cộng sản là Trung Cộng và VC, thì VN tương đối được Mỹ chấp nhận dễ dàng hơn, vì không có một vấn đề gì nhiêu khê, như vụ Ðài Loan đối với Bắc Kinh.

Nhưng thiện chí đầy nhân bản và tốt đẹp trên của TT Carter, đã làm cho bọn chóp bu già ngu tham ác Hà Nội hiểu lầm và tăng thêm lòng kiêu căng phách lối trong những bộ óc đặc sệt chủ nghĩa, là Mỹ đã gục ngã trước chiến thắng thần thánh siêu nhân của các đỉnh cao, cùng với sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội, qua ba dòng thác cách mạng, đã đánh gục ba đại cường Pháp-Nhật-Mỹ, khiến cho tư bản giẫy chết. Bởi vậy Hà Nội cần gì liên hệ với tên đầu sỏ tư bản là Mỹ, đang cầu cạnh tới làm quen. Chính sự chủ quan thiển cận đó, đã làm cho Mỹ quay mặt với VN và quyết tâm kết thân với TC, đẩy Hà Nội vào con đường tận tuyệt, phải chạy theo Liên Xô, gây nên cuộc chiến long trời lở đất, giữa Hoa-Việt tại biên giới hai nước vào tháng 2-1979. Kết quả 5 tỉnh thượng du Bắc Việt bị giặc Tàu tàn phá bằng bom đạn, thành những đống gạch vụn, nhiều vạn đồng bào và bộ đội thương vong thảm thiết và kinh hoàng nhất là cả nước từ nam ra bắc, đắm chìm trong ngục tù thù hận, địa ngục đói nghèo, hơn 10 năm dài vì bị cả loài người quay lưng nguyền rủa, khi đối mặt với hàng triệu thuyền nhân VN, liều chết bỏ quê hương ra biển tìm tự do trong nổi chết chực chờ.

Ðã mang bệnh tưởng tượng không còn thuốc chữa, các lãnh tụ cộng sản vĩ đại của Bắc Bộ Phủ, từ Lê Duẩn-Trường Chinh-Phạm Văn Ðồng tới Lê Ðức Thọ..., lại tham lam không bút mực, nên lúc nào cũng tin là Mỹ phải trả nợ số tiền 3,25 tỷ mỹ kim viện trợ + 1,5 tỷ mỹ kim tái thiết, theo lời hứa mà Richard Nixon đã viết trong một lá thư mật gửi cho Phạm Văn Ðồng, khi hai bên ký kết Hiệp Ðịnh ngưng bắn Paris 1973.

Ngày 16-3-1977, một phái đoàn Hoa Kỳ lần đầu tiên tới Hà Nội sau khi chiến tranh chấm dứt vào cuối tháng 4-1975. Mục đích của chuyến đi là tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA) tại Ðông Dương. Ngoài đại sứ lưu động Leonard Woodcock, một lãnh tụ nghiệp đoàn, được Carter cử làm trưởng phái đoàn, còn có rất nhiều nhân vật quan trọng khác tháp tùng, gồm có đại diện của hai hãng xe Mỹ General Motors và Chrysler, các nghị sĩ quốc hội Mike Mansfield, đại sứ CharlesYost, dân biểu Sonny Montgomery, nhà hoạt động nhân quyền Marian Edelman với vài ký giả tháp tùng.

Nhưng tất cả thiện chí của Hoa Kỳ đã trở thành vô nghĩa, lố bịch trước bệnh tưởng tượng vĩ đại của các đỉnh cao trí tuệ loài người, đang ngất ngưởng ngự trên chiếc ngai vàng được xây dựng bằng máu xương Việt, từ năm 1930 tới nay. Còn gì trắng trợn và tàn nhẫn hơn, qua cuộc đối thoại đầu tiên giữa Woodcock "tôi hy vọng cuộc viếng thăm này, sẽ tạo được căn bản cho mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước" và được từ Nguyễn Duy Trinh, tới Phan Hiền... trả lời, theo lệnh của Lê Duẩn "không có tiền, thì không có tin tức gì về lính cả". Tóm lại theo VC, thì Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh trước như đã đồng ý trong hiệp đinh Paris 1973, rồi mới nói tới chuyện kiếm xác lính Mỹ mất tích". Nhưng Woodcock lúc đó đang đại diện cho nước Mỹ, đã thẳng thắn trả lời với Bắc Bộ Phủ "HIỆP ÐINH PARIS ÐÃ BỊ BỨC TỬ, VẤN ÐỀ CÒN LẠI CỦA VN HÔM NAY, CHỈ ÐƯỢC GIẢI QUYÊT BẰNG LÒNG NHÂN ÐẠO MÀ THÔI".

Thế là trận mưa đô la Mỹ sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ đổ xuống cung đình Hà Nội như lòng ham muốn vô đáy của các chóp bu luôn bệnh hoạn tưởng tượng. Nhưng vốn là những kẻ lì lợm tráo trở, nên vừa thua me đã vội bày bài cào để gỡ, bằng cách dùng những bộ xương khô của lính Mỹ mất tích trong cuộc chiến vừa qua, để làm mồi câu cá mập. Ðồng thời còn hứa hẹn sẽ trao cho Hoa Kỳ tất cả những tin tức và dử kiện về xác Mỹ càng sớm càng tốt, nếu có tiền bồi thường chiến tranh. Sau này qua các tài liệu mật được công bố, cho biết lúc đó Carter rất chú trọng tới VN, không phải do lòng thương lính Mỹ mất tích, mà vì các tiềm lực tài nguyên thiên nhiên, trong đó có dầu hỏa được phát hiện ngoài thềm lục địa VNCH, từ trước tháng 4-1975. Riêng đối với bọn tài phiệt tư bản, phần lớn là chủ ngân hàng, hãng xe, các cơ sở thương mại, hãng dầu của Hoa Kỳ... thì mờ mắt trước lời rao hàng của VC về lao động rẻ, tài nguyên nhiều... nên gây áp lực Chính Phủ bãi bỏ lệnh giao thương với VC, vì sợ món hàng quí trên lọt vào tay tư bản Nhật và Âu Châu.

Ðể tỏ thiên chí và cũng cám ơn về 12 bộ xương khô do Woodcock mang về Mỹ, nên Carter vào tháng 5-1977, đã chấp thuận giúp VC nhiều vấn đề, từ ngân khoản 5 triệu mỹ kim nhân đạo, cho tới sự đồng tình với Liên Hiệp Quốc, qua chương trình cho vay tiền phát triển VN.

Giữa lúc hai phái đoàn Mỹ (Holbrooke) - VC (Phan Hiền) đang thương thảo tại Ba Lê, thì vào ngày 19-12-1977, một vụ án gián điệp ngay trên đất Mỹ, được FBI khám phá, đó là vụ Ronald Humphrey và David Trương (con trai Trương Ðình Dzu, một tên thân cộng từng bị chính phủ VNCH câu lưu trước năm 1975). Thế là qua áp lực của quốc hội, bắt buộc Carter hủy bỏ việc giao thương giữa hai nước, đồng thời chấm dứt luôn việc LHQ cho vay tiền và các dự án đầu tư tại VN. Túng thế làm càn, VC từ Lê Duẩn, tới Phạm văn Ðồng, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh cả Võ Nguyên Giáp... lặn lội sang Trung Cộng, Liên Xô, Ấn Ðộ, Tây Âu... để cầu viện, nhưng ở đâu cũng bị từ chối vì thái độ kiêu căng phách lối, trong lúc đang đi ăn mày thiên hạ.

Từ đó VC mới mặn nồng trở lại với Liên Xô. Cuối tháng 5-1977 gia nhập khối Comecon do Nga làm chủ. Ngày 6-6-1977 Phạm Văn Ðồng gặp tổng bí thư LX là Leonid Brezhnev, để ký hiệp ước liên kết hữu nghị Việt-Xô. Ðây là một thành tựu vĩ đại của đảng ta, vì Nga hứa là sẽ giúp VC từ A-Z, trong đó có 40 công trình xây dựng. Cuối tháng 7-1977, một phái đoàn quân sự Nga gồm 21 nhân vật quan trọng của đảng, bí mật tới các hải cảng Ðà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu và rồi tháng 10-1977, VC ký một thỏa ước đặc biệt với Nga, để nước này chở các chiến lợi phẩm thu được của VNCH như thiết giáp, máy bay... sang bán cho Ethiopia (Châu Phi). Sau đó Nga mới cung cấp cho VC những quân dụng cũ, gồm 2 tàu ngầm, một khu trục hạm, một số tuần duyên hạm và một phi đội chiến đấu cơ Mig-21. Thế là VC theo Nga từ đó, mở màn cho hai cuộc chiến biên giới Việt-Khmer đỏ (12-1978) và Việt-Hoa (2-1979).

Tháng 1-1979, Carter cùng Ðặng Tiểu Bình lúc đó đang nắm quyền Trung Cộng, bình thường hóa bang giao, còn Nga và VC thiết lập liên minh quân sự. Không phải nhờ lịch sử đã vô tình xếp đăt, mà thực sự chính Brzezinaki, kẻ có khuynh hướng thân Tàu, khi đá được Vance, lên nắm quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ, đã ngụy tạo bức tranh chính sách mập mờ giữa Hoa Kỳ-Ðài Loan, để Ðặng vin vào đó mà có cớ hợp tác với Mỹ.

Tháng 1-1979 Ðặng sang thăm Carter tại Hoa Thịnh Ðốn, đồng lúc Mỹ-Nga đang thương tuyết ký hiệp ước SALT II tại Jerusalem (Do Thái) và cao điểm, Hoa Kỳ đang bán vũ khí chiến lược cho Ðài Bắc. Nhưng Ðặng vẫn điềm tĩnh, che lấp sự gượng ép bên trong, để ký kết liên minh với Mỹ vì không còn con đường nào lựa chọn. Sáng ngày 30-1-1979, tại Tòa Bạch Ốc ở Hoa thịnh Ðốn, Carter riêng rẽ gặp Ðặng và nhờ viên thông dịch duy nhất, dịch ngay tại chỗ bức thơ ứng khẩu có nội dung "CẢM TƯỞNG CỦA TÔI LÀ QUYẾT ÐỊNH NÀY ÐÃ CÓ SẲN TỪ LÂU. ÐÓ LÀ VC PHẢI BỊ TRỪNG PHẠT". Tóm lạị tổng thống Carter rất quỷ quyệt, dùng bức thơ miệng không phổ biến, để vừa đồng thuận với Tàu tấn công VN, gián tiếp dằn mặt những đỉnh cao trí tuệ kiêu căng phách lối tại Bắc Bộ Phủ. Ðồng thời chạy được tội, khi dư luận thế giới lên án Trung Cộng bá quyền, tấn công VN, tại diễn đàn LHQ.

Và rồi thời gian lặng lẽ trôi qua, rốt cục chỉ có dân lành ba nước Việt-Miên-Tàu lãnh chịu nỗi đau bom đạn, cùng với sự tàn phá kinh khiếp của chiến tranh. Hưởng lợi nhiều nhất trong cảnh "trai cò tương tranh" là Mỹ, quốc gia Tây Phương duy nhất ca tụng việc Trung Cộng tấn công VN, giữa ngàn muôn thóa mạ của nhân loại. Ghê tởm nhất là trong buổi họp của Ðại Hội Ðồng LHQ vào tháng 9-1979, Hoa Kỳ đã trân tráo bỏ phiếu ủng hộ Khmer Ðỏ của Polpot, vẫn đại diện cho Kampuchia, trong tổ chức này. Bài học lịch sử muôn đời vẫn còn đó, cho thấy Người Mỹ chỉ biết có quyền lợi mà thôi. Ngoài ra không bao giờ cần biết tới danh dự, đạo đức hay dư luận gì hết. Giản dị như vậy, thế mà người Việt (Quốc Gia cũng như cộng Sản), chẳng bao giờ thấu triệt, khi quan hệ chính trị với siêu cường. Tất cả là chiến lược chiến thuật của Mỹ đó, hay nói nôm na là, khi cần thì gì cũng cho nhưng lúc hết xài rồi, có ai dại vồn vã tiếp đón ?

Từ năm 1978-1986, vì tranh chấp với Trung Cộng và Khmer Ðỏ, lại căm thù Mỹ hắt hủi, nên Hà Nội đã rước Nga vào VN, mặc dù trong trận chiến đẳm máu tại biên giới Hoa Việt vào tháng 2-1979 sau đó kéo dài tới đầu thập niên 90, LX chỉ phản ứng bằng nước bọt, khi hai nước đã ký liên minh quân sự. Chính sự hiện diện của Nga tại Ðông Dương và trên hết là sự gia tăng lực lượng Hải quân, kể cả Tiềm Thủy Ðỉnh trong vịnh Cam Ranh, đã làm Hoa Kỳ phải xét lại chiến lược "đỡ lưng" cho Trung Cộng, khi Ronald Reagan của đảng Cộng Hòa thắng cử lên làm tổng thống Mỹ, thay Carter của đảng Dân Chủ. Người Mỹ qua Reagan, lại tái xác nhận liên hệ với Ðài Loan, để tiếp tục bán vũ khí lên tới hàng chục tỷ đô la. Ðể trả đũa, Trung Cộng lại quay về với Liên Xô từ 24-3-1982. Hai nước bắt đầu nối lại sự phát triển thương mại, kinh tế, văn hóa và cao điểm vào tháng 5-1985, Mạc Tư Khoa đồng ý giúp Bắc Kinh canh tân 17 xưởng kỹ nghệ cũ và xây dựng thêm 7 cơ xưởng mới, đồng thời ký hiệp ước gia tăng thương mại giữa hai nước lên 12 lần.

Trước tình trạng công khai trở mặt của các đàn anh, VC chỉ còn cách muối mặt, tìm đủ mọi cách quay về làm đầy tớ cho Trung Cộng, từ cuối tháng 12-1985, để mong giữ đảng và quyền lực xiết cổ họng đồng bào nô lệ cả nước Năm 1991, xã hội chủ nghĩa gần như sụp đổ hoàn toàn trên thế giới, xóa sổ Liên Xô và Ðông Âu. Biến chuyển lịch sử trên, bắt buộc VC không còn con đường lựa chọn nào hơn là chịu làm chư hàu cho TC, qua sự đánh đổi cắt đất biên giới, nhượng đảo, bán biển cho giặc Tàu. Ðồng thời VC mở ngõ biên giới, làm cho cả nước điêu đứng vì hàng lậu và sự xâm nhập ồ ạt của Tàu tại VN trong tất cả mọi lãnh vực, kể cả tư tưởng Hán Tộc, âm thầm đồng hóa người Việt cả nước, qua sự đồng thuận của đảng cầm quyền.

Trong khi đó, vào tháng 1-1985 gần đúng 10 năm người Mỹ tháo chạy nhục nhã tại Nam Vang và Sài Gòn trong tháng 4-1975, Hoa Kỳ được các nước Ðông Nam Á, mời gọi trở lại vùng này, nói là nhờ đóng vai trò xây dựng nhưng mặt thật giúp họ, ngăn chận sự bành trướng của Nga lẩn Tàu. Ðây cũng là thời điểm, đánh dấu nỗ lực mới của Việt Cộng, trong sự mời gọi Hoa Kỳ trở lại VN, trước tiên bằng các phái đoàn tìm kiếm xương khô lính Mỹ mất tích. Rồi giấc mộng vàng, chính thức trở thành sự thật vào tháng 4-1991, qua TT.GBush "Bãi bỏ lệnh cấm vận VN", kế tiếp TT.Bill Clinton "Bình Thường Quan Hệ Ngoại Giao’ giữa hai nước vào năm 1995 và ký "Hiệp ước Thương Mại Song Phuơng Việt-Mỹ’’năm 2001. Cuối cùng mới có cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của Thủ Tướng VC Phan Văn Khải, từ ngày 19-6-2005 tới 25-6-2005, nói là tới nhờ Mỹ giúp vào WTO, nhưng mặt thật sang để cam kết làm hết những điều khoản chưa làm, trong bản thương ưóc trên.

+ HIỆP ÐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ: CON DAO HAI LƯỞI XIẾT HỌNG VC

Hoa Kỳ là một thị trường lớn, dù trong hoàn cảnh nào, cũng vẫn có sức tiêu thụ và thu hút hơn 1/4 số lượng hàng hóa xuất cảng của thế giới. Bởi vậy Mỹ là điểm thu hút, chẳng những của các nước Tây Phương, Nhật, Nam Hàn, Ấn Ðộ, Ðài Loan... mà với các nước cộng sản thù nghịch, từ Nga tới Trung Cộng và VC... tuy miệng lúc nào cũng bài bác nhưng luôn luôn tìm đủ trăm phương ngàn kế, để được kết thân giao hảo.

VN xã nghĩa bắt đầu mở cửa đổi mới, đón tư bản và Tàu trắng đỏ vào nước cứu đảng từ năm 1988. Chính Bill Clinton đảng dân chủ, trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ (1992-2000), đã liên tục bãi bỏ lệnh cấm vận (1993), bình thường hóa bang giao hai nước (1995). Tháng 11-1997, Mỹ và VC đã ký kết sơ khởi, một hiệp ước liên quan tới hoạt động của tập đoàn đầu tư hải ngoại, viết tắt là OPIC (Oversear Private Investment Corporation). Ðây là bước khởi đầu rất quan trọng, như các điều kiện phải có, để tiến tới việc ký hiệp định thương mại, nhằm bình thường hóa toàn bộ các quan hệ buôn bán giữa hai nước. Ðối với các doanh nhân Mỹ làm ăn tại nước ngoài, OPIC có giá trị như một loại bảo hiểm rủi ro cũng như là lời cam kết khi thực hiện các hợp đồng. Riêng Clinton sau khi thoát được sự luận tội của Tối Cao Pháp Viện Mỹ, cũng là lúc sắp mãn nhiệm kỳ vào ngày 20-1-2001, đã cùng vợ con sang du hí tại VN. Hành động hái nho trái mùa của một tổng thống Mỹ mang nhiều tai tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, được báo chí thời đó đề cập bằng những danh từ trào phúng mai mỉa, chẳng hạn như "A lame-duck" qua nghĩa đen "Literal meaning, sense - vịt què", hay hiểu theo nghĩa bóng "Figurative meaning, sense". Việc làm trên thật sự chẳng có gì để được ca tụng là mang tính cách lịch sử (Historic) nhưng như tạp chí Newsweek bình luận ngày 27-11-2000 "sau này khi về hưu, Clinton chắc tự hào lắm, vì là tổng thống Mỹ đầu tiên tới thăm kẻ thù VC".

Năm 2002 khởi đầu việc thực hiện Hiệp Ước Thương Mại Việt-Mỹ, nhưng nền kinh tế xã nghĩa đã không đạt được sự tăng trưởng theo chỉ tiêu đề ra từ 7-7,3%. Nói như Bộ trưởng Kế Hoạch Ðầu Tư VC Trần Xuân Giá, thì đây là điềm xấu báo trước cho cả năm. Ðáng báo động là kim ngạch xuất khẩu cũng giảm mạnh, tới 12% so với năm 2001. Tình trạng suy thoái kinh tế này cũng đâu có khác gì năm 1991 mà VC phải hứng chịu, qua tác động nặng nề vì sự sụp đổ của Liên Xô. Nguyên do cũng vì hầu hết các mặt hàng xuất cảng của VN, từ nông sản, tôm cá cho tới hàng may mặc... đều bị các thị trường Mỹ, Nhật, Tây Âu... lưu ý chẳng những vì phẩm lượng yếu kém, mà quan trọng nhất là giá cả buôn bán bừa bãi, chỉ với mục đích cạnh tranh bất chính, chỉ muốn bán được thật nhiều hàng mà thôi. Ngoài ra không cần phải để ý tới quốc thể và uy tín, là hai điều kiện tiên quyết trong việc giao dịch buôn bán lâu dài. Ðây cũng là hậu quả tất yếu của một nền kinh tế nửa nạc nửa mỡ, được gọi là tư bản định hướng theo xã hội chủ nghĩa. Thực trạng kinh tế trong nước như vậy, mà đảng chẳng lo cải tổ, lại cứ nhắm mắt tiến bừa trên lộ trình HỘI NHẬP vào KHU VỰC TỰ DO MẬU DỊCH ASEAN (AFTA), thi hành HIỆP ÐINH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ, đồng thời chuẩn bị các vòng ÐÀM PHÁN gia nhập TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI.

Ngày 1-1-2002, hai nước VN và Hoa Kỳ chính thức thi hành Hiệp Ðịnh Thương Mại Song Phương và sau hai tháng, cho thấy về phía VN, hàng hóa xuất cảng sang Mỹ chỉ có 0,05% giá trị trong tổng số nhập cảng. Giữa lúc đó thì hàng hàng lớp tư bản Mỹ, mà trong số này có rất nhiều doanh nhân Việt Kiều, kéo vào nước ta làm ăn buôn bán đầu tiên là Hiệp Hội May Mặc và Giày Da Hoa Kỳ. Cuối tháng 1-2002, Phụ Tá Bộ Trưởng Thương Mại Mỹ là William Lash thân hành sang Hà Nội, bàn thảo về những luật lệ điều khoản mà hai phía cùng ký, đồng thời xem xét việc giúp VN các kỹ thuật. Nhờ Hoa Kỳ bợ lưng, nên Xã Nghĩa đã thu hút được rất nhiều nhà đầu tư của Châu Á cũng như Tây Phương, nhảy vào bỏ vốn làm ăn, giúp cho nghành Dệt May của nước ta phát triển manh. Tóm lại nếu được thi hành một cách nghiêm chỉnh, Hiệp Ðịnh Thương Mại là thời cơ để VN cải tổ lại nên kinh tế còn yếu kém vì nạn tham nhũng, cũng như sửa đổi lại nền hành chánh quan liêu lỗi thời và trên hết là biết xử dụng CÔNG PHÁP QUỐC TẾ, chứ không phải là xài LUẬT RỪNG, trong lúc đã chấp nhận làm ăn chung, tuyệt đối phải CÔNG BẰNG SÒNG PHẲNG theo luật định. Tuy nhiên vẫn còn quá nhiều tuyên truyền bôi bác, rằng ký Hiệp Ðịnh Thương Mại, chắc chắn trong tương lai, VN sẽ bị lệ thuộc vào nền kinh tế Mỹ, dù thực sự đây mới chính là bước đầu rất quan trọng, để VN được thu nhận vào Tổ Chức Thương Mai Quốc Tế (WTO) sau này.

Hiệp Ðịnh Thương Mại Song Phương (Bilateral Trade Agreement ố BTA), được VC và Hoa Kỳ, ký kết tại Hoa Thuận Ðốn ngày 13-7-2000 (thời Bill Clinton). Nhìn chung, đây là một văn bản rất chi tiết (detailed) và vô cùng phức tạp (complicated), qua 7 chương chính (chapter) và 9 phụ lục (annexe). Ngoài ra trong văn bản (BTA), có kèm theo mục Ðịnh Nghĩa (Definition), nói rõ nhiệm vụ Các Bên (Parties-Dành chung hai nước) và Bên (Party - Chỉ riêng từng quốc gia). Ngay từ Chương Ðầu nói về Thương Mại Hàng Hóa, đã đề cập ngay tại Ðiều 1 - Về Quy Chế Tối Huệ Quốc (Most Favored Nation - MFN), còn được gọi là Quan Hệ Thương Mai Bình thường. mà hai nước đã cam kết khi ký văn bản, là phải lập tức thi hành vô điều kiện. Nhưng quan trọng nhất là ở Chương II, điều 2 có nói tới Quyền Sở Hữu Trí Tuệ (Intellectual property rights), rất chi tiết, bao gồm Quyền Tác Giả (Copyright), Quyền Liên Quan (Related right), Nhãn Hiệu Hàng Hóa (Trademarks), Bằng Sáng Chế (Patents)... Trong lúc VN Xã Nghĩa và Trung Cộng, hiện nay đang đứng đầu thế giới về tội xâm phạm Quyền Sở Hữu Trí Tuệ của Nhân Loại, trong đó làm thiệt hại nhiều nhất cho Ðại Công Ty Microsolf của tỷ phú Mỹ Bill Gate. Chính những điều khoản liên hệ tới "NGƯỜI CÓ QUYỀN (Right Holder)" bao gồm Thế Nhân hoặc Pháp Nhân, là người duy nhất có quyền cấp độc quyền sáng chế (Exclusive Lisensee), trước Pháp Lý và Công Ước Quốc Tế (International Convention), là một trong những điều còn lại, mà Phan Văn Khải phải sang tận Mỹ để giải quyết.

Trung Cộng từ ngày mở cửa trải thảm đón Nixon-Kissinger năm 1972 nhưng mãi tới 15 năm sau, mới đạt được Hiệp Ðịnh Song Phương với Mỹ và sau đó được hội nhập vào WTO năm 2001. Là một nước lớn với 731 triệu lao động, có giá rẻ mạt so với bất cứ nước nào, như là một điều kiện tiên quyết thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất trong khu vực (39%). Lợi điểm này càng tăng nhiều lần, khi TC là thành viên của WTO, có điều kiện mở rộng hoạt động thương mại toàn cầu, mà VN là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Xưa nay hai nước Việt-Hoa, ngoài vấn đề có chung biên giới dài, còn có nhiều điểm tương đồng về hàng xuất cảng, nhất là sau thời kỳ hai nước mở cửa, để hội nhập vào thế giới tư bản. Tuy nhiên hàng hóa của hai nước, có tương đồng về sản phẩm như hàng may mặc, nông thủy sản... nhưng khác biệt về cơ cấu sản xuất. Trung Cộng với đất rộng, lao động rẻ, vốn nhiều... nên cùng một món hàng, lại có giá thành rẻ hơn hàng VN nhiều lần. Hơn nữa, TC đang là thanh viên của WTO, nên hàng VN không làm sao cạnh tranh nổi, dù phẩm chất hàng hóa VN rất tốt và an toàn vệ sinh hơn hàng TC. Một ảnh hưởng khác cũng không kém phần quan trọng đối với VN, là dù hứa hẹn để được vào WTO nhưng đến nay, TC vẫn cứ thả nổi tỷ giá của Ðồng Nhân Dân Tệ, nay lại trở thành đồng tiền trao đổi tự do, đối với các loại kim ngạch khác của thế giới, trong đó có đồng đô la Mỹ.

Tóm lại, dù đã vào được WTO nhưng hàng hóa xuất cảng của VN ngày nay, đã có rất nhiều vấn đề, từ bị thưa kiện vì bán quá giá, làm mất đi sự ưu đãi về thuế quan tại các thị trường Mỹ-Nhật-Âu Châu. Thêm vào đó là sự canh tranh của hàng Trung Cộng, đang được hưởng qui chế tối huệ quốc, với thuế xuất rẻ mạt. Bởi vậy sự sống còn của kinh tế VN, không phải là cứ đi lạy khắp nơi để xin được ưu đãi, mà là phải có chính sách làm ăn đứng đắn, biết tính toán, cân nhắc lợi hại, để tìm lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới, dù hiện nay chưa được vào WTO. Nhưng trên hết là phải cởi mở, tạo môi trường thành thật, có như vậy mọi người mới dám chung sức góp vốn, để cùng phát triển đất nước, dành lại thị trường nội địa, đang bị hàng hóa Trung Cộng đè bẹp tận tuyệt.

+ VÁN BÀI LIÊN MINH VIỆT MỸ, QUA CHUYẾN VIẾNG THĂM HOA KỲ THÁNG 6-2007 CỦA NGUYỄN MINH TRIẾT:

Cho tới bay giờ, qua bộ máy tuyên truyền vĩ đại của đảng, gần như bịt mắt bóp họng đồng bào trong nước, khiến cho ai cũng tin rằng người Mỹ hiện rất cần cái thị trường to lớn béo bở của VN, nên đảng VC muốn đòi hỏi bất cứ điều gì Hoa Kỳ cũng phải cung ứng đầy đủ, kể cả sự hy sinh dân chủ, nhân quyền mà ông W. Bush luôn coi là mục tiêu tối hậu của mình, qua hai nhiệm kỳ tổng thống (2001-2008). Ðiều này cũng đã được nhiều nhà chính trị trên thế giới đồng thuận khi đem hai tập đoàn đại tư bản Mỹ đang làm ăn tại VN là Bill Gate và Intel ra chứng minh, rồi kết luận "chính quyền Mỹ bị các tập đoàn tài phiệt giựt dây nên chỉ biết phục vụ cho đại tư bản".

Ai cũng biết rõ xưa nay VC luôn láo bịp để thổi phòng và bóp méo sự thật. Bởi vậy ở đâu chúng cũng to miệng tuyên bố "cần quan hệ kinh tế nhưng không được can thiệp vào nội bộ lẫn nhau". Chính những lời này, đã khiến cho Hoa Kỳ phải lật ngửa con bài tẩy trong ván bài "quan hệ chiến lược" giữa ba nước Việt Nam-Trung Cộng và Hoa Kỳ, ngay trong chuyến tới Mỹ của Nguyễn Minh Triết từ 18 tới 22-6-2007.

Tất cả gần như là những trận hỏa mù, mà Hoa Kỳ cố tính thả ra để cho VC càng lúc càng thấy mình quan trọng và cần thiết nhất tại Ðông Nam Á, đến độ Mỹ chỉ được đóng vai trò bảo vệ cho đảng CSVN mà thôi, duy nhất chỉ vậy và đó cũng là ý nghĩa của sự quan hệ chiến lược mà Hà Nội đã vọng tưởng.

VC ngày nay gần như khinh thường tất cả công luận thế giới, trong đó có cả Liên Âu, Úc, Canada... là những thị trường to lớn mà hàng hóa VN rất cần để mua bán trao đổi. Ðối với người Mỹ, VC còn hung hãn hơn, có thể nói là láo xược chẳng khác gì thời trước năm 1975, qua nhiều hành động khinh thường công pháp quốc tế, như vụ hạ nhục và chụp mũ "khủng bố "Dân Biểu Loretta Sanchez, từ Mỹ sang Hà Nội thăm vợ các nhà tranh đấu đang bị cầm tù. Chẳng những lên mặt dạy bảo Hoa Kỳ về luật pháp, ngoại giao... khi ngạo nghễ xua Công An ngang nhiên đàn áp bắt bớ những người chống đối đảng, mà còn viết báo phỉ báng Hạ Viện Mỹ khi cơ quan này đồng thanh (100%) chỉ trích hành động vi phạm nhân quyền tại VN.

Trước những sự kiện nổi điên đột ngột của CSVN có thể nói là hung hãn chưa từng thấy, tại sao vậy ? Ðó là vì VC tự mình quá huyễn hoặc về cái gọi là "thế chiến lược của mình" trên bàn cờ chính trị thế giới, đặc biệt là sự liên hệ với Trung Cộng và Hoa Kỳ. Trong ảo tưởng đó, khiến cho VC tưởng rằng thiên hạ ai cũng phải cần tới mình, vì vậy sẽ không có ai kể cả người Mỹ, dám ngăn cản chống đối sự ngang ngược lố lăng, hành động cướp bốc khủng bố đồng bào trong nước.

Sau nhiều năm mở cửa, phát triển kinh tế theo tư bản chủ nghĩa, Trung Cộng ngày nay đã trở thành một cường quốc thật sự về mọi mặt, kể cả việc thám hiểm không gian vũ trụ. Ðây là một nguy cơ thật sự đối với VN vì sự liên hệ địa lý, nên dù muốn hay không, người Tàu lúc nào cũng coi vùng này như một tiền đồn, ngăn cản họ trên đường bộ tiến xuống vùng Nam Á. Ðó cũng là lý do Hoa Kỳ đã thay đổi chiến lược để phù hợp thực tại, ngược lại Trung Cộng thì muốn biến VN thành một chư hầu, để ngăn cản sự hiện diện của Hoa Kỳ tại tiền đồn sát nách mình. Ðó là cục diện khiến VC lên mặt với thế giối ngày nay.

Cũng vì không muốn VN bị lệ thuộc hẳn vào đế quốc đỏ, để rồi trở thành vết dầu loang nhuộm đỏ các đồng minh của mình trong vùng như Thái Lan, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Nam Dương... nên Hoa Kỳ qua nhiều đời Tổng Thống từ năm 1990 tới nay, mà cao điểm là thời TT W.Bush đã chủ động tìm tới kết thân với VC, vực dậy một cái xác chết chưa chôn qua những khai thông bế tắc của VN trên con đường hội nhập vào quốc tế, qua sự giúp đỡ đầu tư, bảo trợ vay nợ cũng như mở rộng thị trường để nâng đỡ hàng hóa xuất cảng của VN.

Tất cả những hành động trên của Hoa Kỳ, chẳng những giúp VN phát triển về kinh tế, mà còn được coi như là một bảo đảm về chính trị trong vùng, khiến cho Trung Cộng cũng phải xét lại thái độ và hành động của mình, mà bớt đi phần nào sự hung hăng bắt nạt VN như trước. Nhưng VC quá tham lam và đần độn, đã không tự nhận biết mình là ai và đang đứng ở chỗ nào, giống như thời kỳ trước, cứ hung hăng phách lối, ngay cả lúc Nguyễn Minh Triết tới Mỹ "Trung Cộng vẫn là đối tác hàng đầu của VN". Trước những chuyện đầy lố bịch trong quan hệ Mỹ-VC, nhiều người đã thắc mắc rằng, VC có ưu tiên gì khiến cho người Mỹ phải chịu nhượng bộ kể cả vùi dập luôn danh dự của một siêu cường đứng đầu thế giới, khi làm lơ để dung dưỡng cho VC đàn áp khủng bố bốc lột đồng bào ?

Nói một cách thẳng thừng, thì chính VC là kẻ phải nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để sống còn trước Trung Cộng. Nhìn lên bản đồ Ðông Nam Á ngày nay, VN thật sự không chiếm giữ một vai trò chiến lược nào hết ngoài việc có chung biên giới và lãnh hải với Trung Cộng. Những bài học địa lý chỉ có giá trị trong các thập niên 40-50 của thế kỷ XX, được VC thổi phồng trong các sách giáo khoa nhồi sọ trẻ em trong nước, nay đã lỗi thới trước xu hướng phát triền toàn cầu và cũng không phải là cửa ngõ duy nhất để vào khu vực Ðông Nam Á mà chỉ là con đường bộ để đi vào các tỉnh Nam Trung Hoa. VN cũng không phải là một vị trí chiến lược quan trọng trong hải lộ Thái Bình Dương, nếu so với các nước Phi luật Tân, các đảo Hoàng Sa, Hải Nam, Hồng Kông (thuộc Trung Cộng) dù VN có bờ biển dài trên mấy ngàn cây số. Tóm lại, ngoài Trung Cộng cần tới VN, tất cả các nước khác kể cả Nga và Hoa Kỳ đều không cần dùng tới cửa ngõ VN nhưng họ vẫn vào được vùng Ðông Nam Á.

Tóm lại cái gọi là chiến lược mà VC đang huênh hoang khắp thế giới và Hoa Kỳ, chỉ là vấn đề sống còn của VN trước sự bành trướng của Trung Cộng. Biển Ðông, cửa ngõ của VN hướng ra thế giới bên ngoài, thật sự đâu có khác gì cái ao trong biển Thái Bình, nên chẳng ăn nhập gì tới eo biển Malacca thuộc địa vực ba nước Tân Gia Ba, Nam Dương và Mã Lai Á, là huyết mạch trên hải lộ từ Ấn Ðộ Dương tới Thái Bình Dương.

Tóm lại nếu có chiến tranh với Trung Cộng, dù có VN hay không, Hoa Kỳ vẫn có đủ chiến lược đối đầu với Tàu, qua các vị trí tại Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai Á, Tân Gia Ba... Khi có chuyện xảy ra, chính VN mới là nước bị đe dọa trực tiếp. Nói một cách khác, tất cả các nước ở Ðông Nam Á trong đó có VN, đều cần tới sự bảo vệ giúp đỡ của Hoa Kỳ. Như vậy trong ván bài quan hệ chiến lược, dù Hà Nội hung hăng tráo trở, nhưng mọi người đều thấy rõ, thực chất VC là đồng minh của ai ? và chính ai mới cần tới ai trong ván cờ chiến lược toàn cầu ? Bi hài nhất trong vở kịch đồng minh chiến lược VC - Hoa Kỳ, vẫn là "chống Mỹ cứu nước" mà VC đã liên tục đầu độc qua nhiều thế hệ VN trước và sau 1975, qua tài liệu sách báo bảo tàng và mới nhất là vụ kiện chất độc màu da cam, như là tội ác của Mỹ trên đất Việt. Như vậy chẳng lẽ Hoa Kỳ ngu muội đến mức phải hy sinh danh dự của một siêu cường, để bao che cho một đảng cướp đang khủng bố đồng bào và chà đạp nhân quyền, dân chủ trong nước.

Trước chuyến đi Mỹ của tập đoàn Nguyễn Minh Triết, nhiều dấu hiệu cho thấy đã có sự trục trặc trong quan hệ chiến lược giữa VC và Hoa Kỳ. Cái ngu nhất của VC là công khai để lộ nguyên hình thân Tàu quá lộ liễu, nhất là lúc đang đi dây giữa Trung Cộng và Mỹ để hưởng lợi. Không như lúc trước đứng làm ngơ hay phản ứng cho có lệ, lần này Hoa Kỳ đã phản ứng thật mạnh mẽ trước hành động đàn áp nhân quyền và dân chủ tại VN. Riêng Tổng Thống W.Bush ngoài việc chỉ trích VC độc tài trong bài diễn văn đọc tại kinh đô Tiệp Khắc, trên đường tham dự hội nghi G8 - 2007, cũng như lúc tới dự lễ khánh thành Tượng Ðài Nạn Nhân Cộng Sản tại Hoa Thịnh Ðốn.

Chưa hết Hoa Kỳ còn yêu cầu Hà Nội phải thả ngay các nhà tranh đấu dân chủ trong nước đang bị đảng cầm tù, trong đó có các ông Nguyễn Vũ Bình, Lê Quốc Quân... Ngoài ra chính Tổng Thống W.Bush còn mời bốn nhân vật đại diện cho các tổ chức tranh đấu dân chủ của Người Việt, vào Tòa Bạch Ốc để hội kiến với ông và các nhân vật hàng đầu trong chính phủ Mỹ. Trước những sự kiện đã xảy ra, những người am tường về chuyện dài Mỹ-VC, thì cho rằng đây chỉ là màn hỏa mù mà hai phía liên hệ đã nhịp nhàng tung hứng. Phía VC thả các tội phạm để xoa dịu bớt sự chống đối và căng thẳng khi Triết tới Mỹ, còn Hoa Kỳ thì phải làm như vậy để vớt vát bớt mặt mũi của TT W.Bush khi dự G8 và trên hết là hốt phiếu cho đảng Cộng Hòa trong mùa bầu cử 2008, từ khối cử tri người Việt đa số rất căm thù Cộng Sản. Dù gì chăng nữa, sự kiện Mỹ coi thường trong khi đón tiếp Nguyễn Minh Triết khi vào Bạch Cung, đã làm cho VC mất mặt với quốc tế, trong lúc đảng đang cần tiếng tăm để cò mồi buôn bán.

+ SỰ NHỤC NHÃ CỦA TẬP ÐOÀN NGUYỄN MINH TRIẾT TRONG NHỮNG NGÀY CÓ MẶT TRÊN ÐẤT MỸ:

Năm 1927, Tổng thống Coolidge và phu nhân mở tiệc khoản đãi các phái bộ ngoại giao. Trong bữa tiệc, người ta xếp phu nhân của đại sứ Bỉ ngồi cạnh viên đại sứ đầu tiên của Ðức, kể từ sau Ðại Chiến lần thứ I (1914-1918), đồng thời còn kiêm thêm chức giám đốc KRUPP. Vị phu nhân trên đã tuyên bố thẳng thừng trước mặt mọi người "Tôi không ngồi cạnh tên sát nhân này". Tái mặt trước một sự kiện bất ngờ, các viên phụ tá tức tốc phải đổi chỗ ngồi cho bà. Sau đó, Tổng thống Coolidge ra lệnh cho Bộ Ngoại Giao chỉ định một trưởng ban Nghi lễ tại Bạch Cung để lo việc tiếp tân. Ðiều này cho thấy người Mỹ rất coi trọng tới các qui tắc ngoại giao nhưng tại sao lại cắt bỏ các nghi lễ đón tiếp Nguyễn Minh Triết ? Đối với các nước dân chủ văn minh là một biến cố lớn làm nhục quốc thể nhưng với CSVN lại là một chuyện bình thường, vì nhiệm vụ của Triết tới đây, chỉ để cầu cạnh Hoa Kỳ đổ tiền vào nuôi béo đảng và sự giúp đỡ về kinh tế, quân sự cho VN. Tóm lại ngày nào Chính phủ Hoa Kỳ còn chưa tỏ rõ lập trường chính trị dứt khoát đối với VC, chừng đó đừng mong đảng dừng tay hay nhân nhượng với ai về nhân quyền, dân chủ. Chính vì nắm chặt con bài tẩy của Mỹ, nên Triết mới nghênh ngang phách lối trước các cuộc chât vấn hay đối thoại với Quốc Hội và Tổng thống W.Bush rằng "VN không có tù chính trị". Ðiều này cho thấy hàng ngủ lãnh đạo đảng, từ Hồ Chí Minh tới Nguyễn Minh Triết, tất cả gần như đã đánh mất hết sự tự trọng tối thiểu của con người, vì không bao giờ chịu nhận sự thật và những hành động sai trái do chính mình đã gây ra, gây hại cho dân nước.

Dù gì chăng nữa, Triết cũng mang danh là người đại diện cho cả nước nhưng Y đã làm nhục quốc thể, qua những lời phát biểu bịp láo bậy bạ, trước mặt báo giới cũng như chính quyền Mỹ và đồng bào Việt Hải Ngoại, khi được chất vấn về nhân quyền, dân chủ, bầu cử gian lận. Ðã vậy Y còn lớn lối bào chữa việc đảng duy trì chế độ độc tài khủng bố trong nước, là thể theo ý nguyện của toàn dân. Tư cách và trình độ của lãnh đạo đảng như thế, nên suốt thời gian Triết và tập đoàn Mafia đỏ đã bị tập thể Người Việt Tị Nạn trên đất Mỹ biểu tình phản đối hạ nhục, từ lúc mới đặt chân xuống phi trường New York ngày 18-6-2007, cho tới Tòa Bạch Ốc ở Hoa Thịnh Ðốn và cuối cùng là Los Angeles vào chiều ngày 22-6-2007.

Có thể nói được là chưa bao giờ khí thế của đồng bào biểu lộ sự căm thù VC lên cao gần như tột đỉnh. Tại hai thành phố Nữu Ước và Hoa Thịnh Ðốn, nơi có sự hiện diện của Triết và tập đoàn Mafia đỏ, tràn ngập hàng ngàn người tị nạn. Họ từ muôn phương kéo về đây bằng đủ mọi phương tiện và gồm nhiều thành phần xã hội tham dự. Tất cả mang chung ngọn lửa căm phẫn trước những kẻ độc tài độc đảng tham nhũng khủng bố, đã làm hại dân nước, hủy diệt tự do và cuộc sống bình thường của đồng bào cả nước suốt 32 năm qua. Theo tin tức nghe được từ các đài và báo chí, thì nơi nào Triết và đồng bọn cũng nằm bẹp xuống sàn xe hay dùng cửa hậu hoặc đường hầm để vào các địa điểm cần tới, vì sợ đối mặt trực tiếp với đoàn biểu tình đang chống đối chúng quyết liệt, để đòi hỏi công lý cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước và những nam nữ chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ nhân quyền, đang bị đảng bắt bớ cầm tù như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, các nhà tranh đấu Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy,Nguyễn Văn Ðài...

Tại khu vực quanh khách sạn St Regis Monarch Beach Resort là nơi Triết và tập đoàn đỏ trú ngụ, từ chiều ngày thứ sáu 22-6-2007 đã biến thành rừng cờ vàng của hơn 5000 người Việt tị nạn biểu tình đả đảo CS. Theo lời kể của Thiếu Uý Phạm Hòa thuộc Nha Kỹ Thuật Bộ TTM/QLVNCH, người đã hiện diện trong khu vực suốt thời gian biểu tình, cho biết tinh thần chống Cộng của Người Việt tị nạn rất cao và kỷ luật. Ðặc biệt khi thấy đoàn xe chở Triết và đồng bọn tiến vào khách sạn, nhiều cụ già đã nhào ra trước đoàn xe để la ó sỉ nhục bọn khủng bố độc tài. Riêng Nguyễn Cao Kỳ, vợ chồng chủ công ty Lee Sandwiches và nhiều tên Việt gian khác thì ngự trong xe kiến đen bịt bùng nhưng vẫn không dám ngó người Việt đang biểu tình phía ngoài. Ðặc biệt trong cuộc biểu tình này, cảnh sát Mỹ thuộc khu vực Dana Point hiện diện rất đông, có cả trực thăng bay tuần thám trên trời. Tuy nhiên đã không có điều đáng tiếc nào xảy ra vì nhân viên công lực chỉ làm nhiệm vụ của mình nên rất hòa nhã với mọi người. Sát cánh với đồng bào, là sự hiện diện của các vị dân cử gốc Việt gồm Giám sát viên Janet Nguyễn, Nghị viên Andy Quách, Tạ Ðức Trí, Nguyễn Quốc Lân, Nguyễn Quang Trung và Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang CA Lou Correa... Ngoài các đoàn thể, đảng phái, các lực lượng chính và đồng bào tại Los Angeles, vùng lân cận thuộc Nam CA như Orange County, San Diego... còn có phái đoàn Người Việt tại San Jose, Sacramento.

Nhục nhã nhất là Triết đã chọn một nơi hẻo lánh như Dana Point để làm hang ổ dừng chân tại Nam CA nhưng vẫn bị hơn 5000 người Người Việt tị nạn tìm tới biểu tình hạch tội. Ðặc biệt là trong cuộc biểu tình này, ngoài những người lính già còn có sự tham dự rất đông đảo của lớp người trẻ từ 20-40 tuổi, vì không chấp nhận chế độ phi nhân độc tài đảng trị, nên đã sát cánh cùng anh cha tới đây đã đảo phản đối lũ vô thần.

Cuộc biểu tình chống Nguyễn Minh Triết tại đây, được tổ chức và điều động bởi một Ủy Ban Ðặc Nhiệm với các anh Phan Kỳ Nhơn (Trưởng toán) phối hợp cùng Nguyễn Phục Hưng (TQLC), Cao Viết Lợi (Phong trào Giáo dân), Lê Quang Dật (Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử), Nguyễn Phượng Hùng (BÐQ) và Thiếu Úy Phạm Hòa (LLÐB) giữ phần tuần tiểu suốt khu vực biểu tình bằng chiếc xe Jeep ve rằn ri, có treo hai lá đại kỳ Mỹ và Việt. Gần như báo chí và truyền thông của Người Việt tại Nam CA đều có mặt trong cuộc biểu tình gồm Ðài Truyền Hình STBN (Thanh Toàn và 10 phóng viên), VNCR (CNN Nguyễn Ngọc Chấn), Nguyên Huy (Người Việt), Anh Thành (Viễn Ðông), Bùi Bỉnh Bân (Ðiện Báo NVQG), Du Miên (Thời Báo), Vương Trùng Dương (Cali Weekly),

Như lần trước, Phan Văn Khải tới Mỹ tư 19 tới 25/6/2005 là một chuyến đi đầy nhục nhã vì ở đâu cũng bị đồng bào tị nạn biểu tình phản đối. Thế nhưng báo đảng đã đổi trắng thay đen, vẽ vời tâng bốc là Khải đã tạo được dư luận tốt và đạt được mục tiêu quan trọng hàng đầu là móc nối làm ăn buôn bán với Mỹ. Khải còn khoe trong chuyến đi, đã được bắt tay với nhiều yếu nhân Mỹ trong đó có Tổng thống W.Bush và đặc biệt được Paul Richter, viết bợ trên tờ Los Angeles Times "Thủ tướng VN được Mỹ đón tiếp trọng thể".

Còn Nguyễn Minh Triết khi vừa về tới Hà Nội ngày 24-6-2007, đã vội ra lệnh cho báo đảng viết bài thổi phòng chuyến đi của mình, trong lúc hầu hết báo chí và truyền thông quốc tế đều loan tin sự nhục nhã của Triết và đồng bọn, từ ngày 18 tới 22/6/2007 trên đất Mỹ.

Nhưng thành công nhất có lẽ là sự mai mỉa cay độc của Triết khi viết về Nguyễn Cao Kỳ "Anh NCK đang ở VN nhưng khi chuyến thăm của đoàn có cuộc gặp gỡ đã bay về Mỹ và có mặt ở đây hôm nay "Ðúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hai kẻ chuyên môn nói láo, cho nên "ngày hôm nay, mọi bất hòa đã chấm dứt "-/-

Xóm Cồn
Tháng 6/2007
Mường Giang

http://www.viet.no/content/view/1438/87/

Aucun commentaire: