vendredi 22 juin 2007

Kẻ Sặt với cuộc di cư vào miền Nam,từ 1954 đến 1975

Kẻ Sặt với cuộc di cư vào miền Nam,từ 1954 đến 1975

--------------------------------------------------------------------------------

Vi-Sơn

Tổng quát

Bản hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954 đã chấm dứt chiến tranh Việt Pháp kéo dài 9 năm, từ 1946 đến 1954, đồng thời cũng đưa lịch sử tổ quốc Việt Nam và lịch sử quê hương Kẻ Sặt vào một khúc quanh quan trọng chưa từng thấy bao giờ. Ðó là việc chia đôi đất nước, chia đôi quê hương thành hai miền xa vời với hai chế độ hai nếp sống đối lập nhau...

Chiếu theo hiệp định đình chiến, dân chúng hai miền Nam và Bắc có quyền chọn miền và chế độ để sống. Làng xứ Kẻ Sặt vì là Công Giáo toàn tòng, biết không thể nào sống được dưới chế độ vô thần, nên đã dứt khoát lập trường để ra đi hầu bảo vệ đức tin. Cho nên ba phần năm dân số tức khoảng 6000 người đã lìa bỏ Kẻ Sặt Miền Bắc để di cư vào Miền Nam.

Lên đường

Suốt trong những tháng 7, 8, 9 năm 1954 và còn kéo dài sang năm 1955, dân chúng kéo nhau ra Hải Phòng để lập thủ tục di cư rất đông. Những khu phố tập trung chờ đợi là: Hàng Kênh, Trại Cau, Bà Mau và Nhà Thờ Cấm . Một số nhỏ đi bằng máy bay, còn hầu hết đi bằng tầu thủy.

Ðể tới tầu lớn Anh và Mỹ đậu ngoài khơi, dân di cư được chuyển từ bờ sông Hạ Lý ra, bằng loại tầu nhỏ của quân đội Pháp gọi là ''tầu há mồm''. Chuyến đi đông nhất vào khoảng 2000 người Kẻ Sặt, rời cảng Hải Phòng ngày 14-9-1954 bằng tầu chở hàng Hawaii Bear. Những chuyến sau cùng đi chung với người thuộc các địa phương khác bằng tầu hải quân Mỹ như Marine Serpent...

Hải trình Bắc Nam phải đi mất 3 đêm 4 ngày. Hai bến cảng Miền Nam tiếp nhận là Vũng Tàu ở trại tạm cư Rạch Cát, và Bạch Ðằng Sài Gòn, ở trại tạm cư Phú Thọ. Chuyến đông người nhất khi cập bến Sài Gòn thì được đưa về tạm trú ở Trại Trấu trên bờ sông là nơi chứa thóc, cạnh cầu Nhị Thiên Ðường Chợ Lớn.

Sau hai tuần lễ, một số gia đình chọn định cư ngay tại khu Bình Xuyên, sau đổi thành Bình An cách Trại Trấu 2 cây số, một số khác đi Bến Cát thuộc tỉnh Thủ Ðầu Một, sau đổi thành Bình Dương , một số tới vùng ngoại ô thị xã Vũng Tàu, còn đại đa số thì được đưa về Hố Nai thuộc tỉnh Biên Hòa.

Các trại tạm cư được thiết lập bằng lều vải quân sự hoặc là những dẫy nhà tranh do Phủ Tổng Uỷ Di Cư dựng lên.

Phấn đấu

Thời gian đầu, những người di cư được sự giúp đỡ hiện kim và phẩm vật trợ cấp của chính phủ quốc gia và các cơ quan từ thiện như Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và Cơ Quan Cứu Trợ Công Giáo Hoa Kỳ CARE v.v...

Nhìn đất rừng, người người không khỏi nản lòng vì cảm thấy thật khó khăn trong việc mưu sinh . Một số ít người có vốn đã rời khỏi Hố Nai đi làm ăn tại Sài Gòn. Số người khác đi các nơi xa hơn. Còn hầu hết thì cứ ở lại, chấp nhận thực tế và ra sức phấn đấu với bao vất vả, gian lao ...

Dân di cư được tập hợp theo từng Ðịa Phận và Xứ Ðạo. Hố Nai là khu vực dành cho Ðịa phận Hải Phòng. Các xứ đạo ở liền nhau, nhiều chỗ không phân biệt ranh giới rõ ràng.

Nghề phổ thông nhất lúc đó là ''dô rừng'' (cách đọc của người miền Nam) cắt tranh, chặt cây làm củi hay cột nhà để bán. Nhưng càng ngày cây rừng càng hiếm. Nhiều người làm rẫy, gieo lúa lốc và trồng rau bên suối. Lúc đó ai có sức phá rừng làm rẫy thì đương nhiên được quyền sở hữu khu đất đó. Thú rừng như khỉ đàn, heo rừng, nhím và cọp thường đến phá hoa mầu. Từ đó nẩy sinh thêm nghề săn bẫy. Việc buôn bán trở nên tấp nập và mỗi lúc một phát triển với các hàng quán, cửa hiệu được mở ngay tại chỗ ở. Rồi chợ được hình thành dần dần và càng lúc càng sầm uất, theo đúng năng khiếu của dân mình từ xa xưa. Chợ Sặt lại được nhiều người biết đến và cùng họp chung.

Nhà ở được ngăn ra từ các lán trại tập thể để chia cho từng gia đình. Mỗi nhà tự túc sửa chữa cho chắc chắn và ngăn nắp hơn. Nhưng do tâm lý chung lúc đó thì không ai muốn xây cất kiên cố vì chỉ nhắm chừng độ vài năm nữa thôi ta lại hồi hương, như điều khoản của hiệp định nói sẽ có cuộc tổng tuyển cử tự do...

Nếp sống mỗi lúc một ổn định và khả quan. Cảnh tượng rừng rú không còn nữa mà đã trở thành một khu định cư đầy triển vọng. Ðiểm đặc biệt nhất là sinh hoạt đạo đức thì hết sức nhiệt thành. Công trình chung trước hết của bất cứ xứ đạo nào cũng là làm cho được một nhà thờ, dù lúc đầu chỉ là một dẫy lán trại mái tranh, chưa có chuông thì dùng kẻng. Chương trình phụng vụ sớm tối đều đặn, các cuộc rước kiệu vẫn tưng bừng sốt sáng...Về phương diện văn hóa giáo dục, khu nhà thờ cũng chính là nơi các lớp học được mở ra.

Hướng về cố hương

Trong khi đó, tin tức về những người thân yêu còn ở lại Miền Bắc chỉ được biết một cách vắn tắt qua những tấm ''Bưu Thiếp'' có khuôn khổ giới hạn, hay qua thư từ gửi vòng qua Âu Châu. Thư nào cũng chỉ có những tin về gia đình như sức khỏe hay việc tạ thế của một ai đó. Việc làm ăn và đời sống thì không thư nào dám nói rõ ra vì lẽ tất cả đều bị chế độ Miền Bắc kiểm duyệt gắt gao. Tuy nhiên, qua những dòng chữ, ai cũng hiểu được người thân của mình còn ở bên đó đang sống một đời vật chất thiếu thốn và tinh thần tù hãm biết chừng nào...

Những lời chúc cuối thư từ bên này hay bên kia thường chỉ nói lên ước vọng hòa bình thống nhất, hay nói lên niềm tin tưởng cậy trông nơi Ðấng Tối Cao...

Phát triển

Ngoài sinh hoạt tôn giáo ở thánh đường là chính yếu và cần thiết, trường lớp cấp tiểu học được xây dựng với sĩ số đông đảo. Học sinh trung học thì phải đi xuống thị xã Biên Hòa hay lên thủ đô Sài gòn. Chợ Sặt ngày một thêm phát triển và tấp nập. Xe cộ tới lui nhộn nhịp. Thanh niên nam nữ chiều chiều đi dong chơi trên Quốc Lộ số 1 thật vui vẻ. Các hình thức giải trí như thể thao và văn nghệ được tổ chức hàng tuần nhất là vào các dịp lễ tôn giáo và quốc gia, thu hút đông đảo giới trẻ từ các xứ lân cận đến... Tổ chức hành chánh về xã ấp được thiết lập và ổn định. Hố Nai ngày một trở nên có sinh lực dồi dào, thể hiện sức sống và tiềm năng của người dân ''Bắc Việt Di Cư'' nói chung.

Thời gian 2 năm như mong đợi, rồi cũng qua đi mà không thấy biến chuyển gì, dân Sặt đã minh nhiên chấp nhận Hố Nai Miền Nam là quê hương thứ hai vĩnh viễn. Nhưng dân số mỗi ngày một tăng nhanh trong khi đất đai thì có giới hạn, do đó nhu cầu cư trú trở nên khó khăn. Một số gia đình đã tự động đi tìm nơi cư trú xa hơn như Bình An, Xóm Mới, Gò Vấp ở ngoại ô Sài gòn, như Cái Sắn, Sóc Trang ở Miền Tây, hay Lạc Lâm, gần Ðà Lạt và xa hơn nữa tận Ban Mê Thuột hay Ðà Nẵng ở Miền Trung. Ðiểm độc đáo là dù bất cứ ở đâu, người Sặt cũng giữ những nhiệm trong ban hành giáo nơi đó !

Nhưng đại đa số vẫn ở lại Hố Nai. Giai đoạn đầu đều tập trung ở cây số 8 (tính từ tỉnh lỵ Biên Hòa lên). Cha Hoàng Trọng Thu làm chính xứ Kẻ Sặt1 từ ngày di cư trong 9 năm, với nhiều điểm tích cực nhưng cũng không ít điều tiêu cực, thương tổn trầm trọng đến truyền thống phong hóa làng xứ... Sau khi cha Thu phải đổi đi, thì cha phó Nguyễn Thanh Minh lên thay cho tới ngày nay. Ðó là một vị chính xứ lâu năm nhất ở Kẻ Sặt.

Với đặc tính không ngừng vươn lên, người Sặt đã mua lại được hầu hết nhà đất của các xứ lân cận như Mai Trung, Ðại Lộ và lập thành một dẫy phố thương mại phồn thịnh, hơn cả Phố Sặt Miền Bắc trước đây.

Một khu mới được hình thành ở cây số 7 với mấy chục gia đình, gọi là họ Vi Cen Tê vì ở đây có xây đền kính Thánh Vicentê, thuộc xứ Hải Phòng và một ngôi chợ gọi là chợ Bắc Hải.

Ðặc biệt còn một khu rộng rãi nữa ở cây số 6, gọi là Sặt 2, gồm ngót 100 gia đình và đã trở thành một giáo xứ riêng biệt. Ðây là công trình lớn lao của cha già Lê Duy Thức. Người đã mua lại một phần đồn điền cao su của người Pháp bỏ hoang. một ngôi thánh đường theo lối kiến trúc mới tọa lạc trên ngọn đồi cuối cùng của vùng cao nguyên Nam Phần, với công trường rộng rãi.

Những sự kiện đáng ghi

Tất nhiên đã có rất nhiều diễn biến trong thời gian này. Nhưng xin chỉ lược kể một số sự kiện tiêu biểu:

Năm 1955, Ðức Hồng Y Spellman Giáo Chủ Nữu Ước, rồi đến năm 1959, Ðức Hồng Y Agagianian, Bộ Trưởng Truyền Giáo Tòa Thánh đều đã đến thăm giáo xứ Kẻ Sặt.

Năm 1966, Ðức Mẹ Fatima (Danh hiệu Nữ Vương Hòa Bình) trên đường viễn du khắp thế giới đã dừng chân tại xứ nhà.

Ngay từ năm 1955 cho đến năm 1965, công dân Công Giáo Kẻ Sặt đã từng tích cực tham gia những cuộc biểu dương khí thế phụng sự Thiên Chúa và bảo vệ Tổ Quốc tại địa phương , nhất là tại thủ đô Sài gòn. Chủ đích là để bầy tỏ tinh thần hậu thuẫn tổng thống Ngô Ðình Diệm, vị đại ân nhân của dân di cư, không phân biệt tôn giáo.

Năm 1962, do nhu cầu quân sự, đồng thời cũng nằm trong kế hoạch phát triển Miền Nam, xa lộ Biên Hòa được hình thành. Phần cuối của xa lộ tân kỳ này lại tiếp giáp với Kẻ Sặt, tạo nên thế thuận lợi cho việc mở mang làng xứ, đặc biệt là Chợ Sặt mới và nghĩa trang rộng.

Năm 1965, quân đội Hoa Kỳ ồ ạt vào Miền Nam, đồn trú đông đảo tại khu tiếp vận Long Bình, cách Kẻ Sặt không bao xa. Nhiều người đã trở thành công nhân cho các hãng thầu và đơn vị Mỹ, gọi chung là đi ''làm cho Mỹ''. Thu nhập quả thực cũng rất đáng kể. Tuy nhiên, hệ quả về mặt xã hội, đạo đức và gia đình đã trở thành những nố nghiêm trọng về niềm tin chân truyền...

Năm 1968, biến cố chiến tranh tết Mậu Thân xẩy ra, lần đầu tiên gây nên tang tóc và đổ nát cho dân làng tại Miền Nam.

Năm 1970, các thiện chí xây dựng quê hương từ nhiều lứa tuổi đã đồng loạt phát động như: Phong Trào Hương Ước, Hội Hương Lão, Tổ chức Ái Hữu và Gia Ðình Cựu Học Sinh Văn Côi v.v...

Năm 1974, việc khánh thành nhà thờ Kẻ Sặt 1 được tổ chức linh đình, trong đó có cuộc trình diễn thánh ca của các ca đoàn địa phương thật xuất sắc và tưng bừng.

Kẻ Sặt Hố Nai

Như đã trình bầy, gọi là Kẻ Sặt Hố Nai thì phải gồm cả ba khu vực ở những cây số 6, 7 và 8... Nhưng đối với người ngoài, khi nói tới Kẻ Sặt Hố Nai, người ta thường chỉ liên tưởng tới Kẻ Sặt 1, với ngôi thánh đường cổ kim hòa điệu, vĩ đại vào bậc nhất Giáo Phận Xuân Lộc, rất xứng đáng với truyền thống giáo xứ thời danh từ Bắc vào Nam.

(Chỉ đáng tiếc rằng, thay vì xây dựng ở địa điểm phía ngoài gần xa lộ, với trường học, nghĩa trang, đất rộng và hướng ra xa lộ, thì do những bất đồng, ngôi thánh đường đó đã được kiến tạo ở phía trong, ngay trên nền của thánh đường cũ, với nhà cửa san sát, không có bối cảnh bề thế, ví như thể của quý mà cứ để ở trong hộp vậy. Ngoài ra, khi chụp hình theo chiều nghiêng, người ta lại thấy cả quần áo phơi trên sân thượng của nhà dân, làm giảm tính tôn nghiêm đi. )

Kẻ Sặt Hố Nai đã trở thành quê cha đất tổ mới. Những dịp Lễ, Tết, đồng hương dù ở đâu cũng thường trở về đây xum họp trong tình yêu thương đậm đà. Cũng chính ở nơi đây, mọi truyền thống tốt đẹp của quê hương vẫn được duy trì và không ngừng phát huy cho phù hợp với trào lưu tiến hóa mới.

Ðời sống vật chất của dân chúng Kẻ Sặt nói chung đã đạt tới mức độ cao, vì hầu hết đều ăn nên làm ra. Nhà ở được xây dựng kiên cố và theo kiểu mới, với những phương tiện văn minh tân kỳ, thể hiện qua những cột ăng ten truyền hình, điện khí hóa từ ngoài vào trong, đêm cũng như ngày...Ðiểm đặc biệt là tình trạng giầu nghèo không còn cách biệt quá xa như khi còn ở Miền Bắc. Rất nhiều gia đình khi xưa từng ''ăn bữa sáng lo bữa tối'' nay lại trở thành khá giả, thậm chí ngược lại còn hơn cả một số gia đình trước đây bao đời đã là tầng lớp ''nhà ngói cây mít'' nữa. Thật là Ơn Trên công bằng vậy !

Về đời sống tinh thần, hai giáo xứ và một họ đạo luôn thể hiện lòng sốt sáng và lớn mạnh về tổ chức và sinh hoạt, từ Giáo Phận Sài Gòn trước kia đến Giáo Phận Xuân Lộc sau này. Kẻ Sặt vẫn liên tục cống hiến cho Giáo Hội nhiều tu sĩ nam nữ và linh mục...

Về phương diện văn hóa các thế hệ Kẻ Sặt mới đã được thăng tiến và thành đạt ở trình độ chuyên viên và đại học, nhờ nhiều gia đình đã có được những điều kiện kinh tế khả dĩ, nhất là do sự thay đổi, có thể nói được là ''cách mạng quan niệm'' của phụ huynh.

Nhiều thanh niên đã thi hành nghĩa vụ quân sự thuộc đủ mọi binh chủng, ở mọi cấp bậc. Nhiều sĩ quan đã có cơ hội được đào tạo văn võ song hành, đặc biệt là đi du học ở nước ngoài như Mã Lai. Ðài Loan và Hoa Kỳ...

Trên đây là lược thuật những nét chính yếu về làng xứ Kẻ Sặt Miền Nam, từ cuộc di cư năm 1954 đến năm 1975. Những vấn đề kế tiếp được đặt ra còn là:

-Tình trạng Kẻ Sặt Miền Bắc như thế nào trong suốt thời gian này ?

-Rồi từ biến cố 1975, Kẻ Sặt ở cả Hai Miền Ðất Nước ra sao?

-Và độc đáo nữa là Kẻ Sặt Hải Ngoại trên toàn thế giới ?

Xin tạm ngừng bút ở đây. Hy vọng sẽ còn những cây bút nhiệt thành và có khả năng khác nghiên cứu, ngõ hầu mọi diễn biến thịnh suy, thăng trầm của dòng lịch sử quê hương ta được ghi chép, như một di sản tình thần và tình cảm trân quý để lại cho những thế hệ về sau ở trong cũng như ngoài nước...

Lời cuối cũng như lời đầu

Trong cảnh mịt mờ về dòng lịch sử Quê Hương, chúng ta đã cố gắng vượt mức tìm lại quá khứ từ trên 400 năm trước đến ngày nay. Tất cả đã được trình bầy trong suốt 7 số báo Liên Lạc của Gia Ðình Kẻ Sặt Bắc Cali.

Dù không tìm lại hết được mọi vết thời gian, nhưng tương đối cũng đủ cho chúng ta hãnh diện về những nét hào hùng của Tổ Tiên, xót xa vì những thời kỳ đen tối, phấn khởi với bao vẻ đẹp của Quê Hương mà Thiên Chúa đã phú ban, và tin tưởng nơi tương lai ngời sáng của dòng giống Kẻ Sặt Tráng Liệt Bình

Tất nhiên, những dòng cảm nghĩ này cũng không tránh khỏi nhiều khuyết điểm và thiếu sót. Chỉ có một điểm đáng ghi nhận đó là sự cố gắng và...liều mình, nếu không muốn nói là can đảm đặt thành vấn đề. Vả lại, chỉ bàn định hay phê bình mà thôi, thì quả thật là một việc quá dễ dàng!

Ðã từng có nhiều ý kiến cho rằng phải thế này, nên thế kia như cần có những tài liệu, sách vở dẫn chứng rõ ràng, hay tường thuật những sự kiện chi tiết hơn v.v...

Từ năm 1973, khi thực hiện tập khảo luận này, kẻ viết đã theo phương thức như sau: Hỏi han và lắng nghe nhiều bậc lão thành kể lại những câu truyện và giai thoại từng truyền khẩu lâu đời, rồi ghi chép lại. Nay nhiều vị đã vĩnh viễn ra đi mất rồi.

Tài liệu ghi chép lúc đó không ngờ đã lên tới hàng vạn mảnh giấy nhỏ. Kẻ viết đã theo quy tắc viết sử của cụ Trần Trọng Kim để: thu thập tài liệu, phê bình và lựa chọn, bố cục thứ tự trước sau rồi mới bắt đầu viết.

Ðể xác chứng hơn, những chi tiết cũng được đem đối chiếu và tham khảo thêm từ một số gia phả của các dòng họ, các sách báo về quốc sử và giáo sử Việt Nam, những bản văn cũ bằng Hán, Nôm, Pháp Ngữ và Quốc Ngữ. Ngoài ra còn có những hình ảnh xa xưa và một số cổ vật gia truyền nữa...

Ðó là khi viết từ thời gian khởi đầu đến trước năm 1945. Còn từ 1945 tới nay thì tài liệu khá rõ và đủ, nhất là do chính bản thân kẻ viết đã sống qua, mắt thấy và tai nghe.

Tuy nhiên, cũng xin minh định rằng đây không hẳn là một bộ sử đúng nghĩa với những sự kiện, những chi tiết biên niên và những lời bình luận đích thực. Khi gọi là sử thì phải có đủ mọi việc tích cực và tiêu cực, cái tốt cũng như cái xấu. Nhưng thật là tế nhị và phức tạp khi phải nói thẳng và nói thật; thậm chí kẻ viết đã từng bị mất lòng một số người và cũng đã từng chuốc lấy sự oán hận. Ðó chính là nỗi khổ tâm của kẻ đã viết và cũng là sự ngại ngần của người định viết !!

Dù sao thì cũng cứ ''hãy thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi...nguyền rủa bóng tối''. Ước mong một nỗ lực hợp tác chung với tính cách tập thể cùng nghiên cứu sẽ hình thành trên đường về nguồn, vì tình yêu Quê Hương và vì những thế hệ tương lai.

V.S.


--------------------------------------------------------------------------------

Trang Nhà

Aucun commentaire: