mercredi 13 juin 2007

Phỏng vấn Phụ tá Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (Ia)

Phỏng vấn Phụ tá Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (Ia)

2007
Ông Nguyễn Văn Ngân Phụ Tá Đặc Biệt TT Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho Trần Phong Vũ



Trần Phong Vũ
Đôi lời của người phỏng vấn: ― Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ chìa khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đã vĩnh viễn ra đi ngày 29/9/2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi ký. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về lòng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lãnh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau. Một khuôn mặt thời cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lãnh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một người yêu nước cô đơn? Một nhà lãnh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng… sinh bất phùng thời?


Trần Phong Vũ (2006)
Nguồn: TPV
--------------------------------------------------------------------------------

Do một trùng hợp tình cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đã gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006).

Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách “vòng trong” thì ông là người đã nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.

Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập.

Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10/71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa đến tình trạng độc cử.

Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01–74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống.

Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện… và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân đội.

Tháng 5/1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 1/75, ông từ Mỹ và Gia nã đại (Canada) về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh “cô lập” và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt nam đi Đài Loan tối ngày 25/4/1975.

Trong cuộc phỏng vấn, chúng tôi được ông Ngân cho xem một số chứng liệu liên hệ và chúng tôi đã yêu cầu được làm phóng ảnh văn kiện có thủ bút của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kèm theo phần kết thúc loạt bài phỏng vấn này.

Ngày 25 tháng 9 năm 2006
Kỳ thứ nhất: — Những bí ẩn lịch sử được khai quật

• Vì sao, cho đến khi chết, ông Thiệu vẫn không viết hồi ký?
• Ngoài cộng sản, ông Thiệu mang mối thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời
• Vụ mất Quảng Trị năm 72 là một “sabotage politic”?
• Vào lúc nào ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một cách chống trả cuối cùng?

TPV: Sau khi tổng thống Thiệu mất tháng 9 năm 2001 nhiều tài liệu được tiếp tục giải mật và nhiều hồi ký chánh trị được xuất bản liên quan đến nội tình và cuộc chiến Việt Nam vào giai đoạn ông cầm quyền. Ông là một công sự viên thân cận và là phụ tá chánh trị của tổng thống Thiệu, có thể giúp chúng tôi soi sáng một số vấn đề liên hệ?

NVN: Tôi chỉ có thể trả lời cho ông những sự thực mà tôi được biết trực tiếp hay gián tiếp bởi những công việc và trách nhiệm được giao phó trong giai đoạn đó.

Điều đáng tiếc là tổng thống Thiệu lúc còn sống đã hoàn toàn im lặng.

TPV: Theo ông biết thì vì lý do nào tổng thống Thiệu không để lại hồi ký?

NVN: Tôi có biết một số sự việc.

Đầu năm 1983 tôi gặp ông Thiệu ở London. Ông kể cho tôi việc bà Anna Chennault qua Đài Loan thăm ông sau 30/4/75. Năm 1968, bà Anna Chennault là thành viên trong nhóm vận động tranh cử của tổng thống Nixon đã gặp ông Thiệu nhiều lần tại Sài Gòn và quyết định của ông Thiệu không gởi phái đoàn dự hòa đàm Paris đã giúp Nixon thắng cử Humphrey với một tỉ lệ xít xao vào cuối năm đó. Cũng cần nói rõ ở đây là quyết định của ông Thiệu không gởi phái đoàn dự hòa đàm không phải vì Nixon như nhiều nhân vật chính trị đã suy diễn bởi hệ quả của nó mà vì những bất đồng giữa Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) và chính quyền Johnson chưa được giải quyết trong đó có vai trò của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) tại hòa đàm. Ông Thiệu thuộc loại người ăn chắc mặc bền, rất cẩn trọng và tinh thần trách nhiệm không cho phép ông đem sinh mạng đất nước vào canh xì phé đổi chác những hứa hẹn thiếu cụ thể. Về việc bà Chennault qua thăm ông Thiệu tại Đài Loan, ông nói: “Người Mỹ đâu có xuất tiền mua vé máy bay đi thăm tôi, họ muốn thăm dò phản ứng của tôi vì năm 76 là năm bầu cử tổng thống Mỹ; bà Chennault nói với tôi: "nếu tổng thống viết hồi ký thì tôi đã có sẵn publisher…’” Ông Thiệu nói và đồng thời khuyên tôi: “Nếu mình còn muốn làm việc cho quốc gia thì không nên viết hồi ký, họ biết tư tưởng của mình thì còn làm việc sao được”.

Năm 1992, sau khi Đông Âu tan rã và Liên bang Xô–Viết sụp đổ, tôi nói với ông Thiệu: Bây giờ tổng thống có thể xúc tiến viết hồi ký. Ông đồng ý và yêu cầu tôi đóng góp ý kiến.

Thời gian sau đó tôi không còn liên lạc với ông nhưng qua vài người thân cận với ông tôi biết ông đã bỏ ý định viết hồi ký.

Tháng 7/2001 tôi nói chuyện điện thoại với ông vào lúc ông vừa ở bệnh viện ra và đang thời kỳ vật lý trị liệu. Ông cho tôi biết rõ về căn bệnh tim, giọng ông đã yếu rất nhiều so với trước. Ngay sau đó tôi có đề nghị với một người bạn thân của gia đình ông là nên gợi ý với ông Thiệu để lại di chúc chánh trị vì với căn bệnh tim như ông nói thì có thể ra đi bất cứ lúc nào. Sở dĩ tôi không đề cập thẳng vấn đề với ông Thiệu vì đã lâu tôi không có liên lạc với ông, đây là vấn đề tế nhị có thể tạo nên xúc động ở một người lớn tuổi và đang đau yếu.

TPV: Khi ông nghĩ về một di chúc chánh trị của ông Thiệu chắc hẳn phải có lý do?

NVN: Trong cuộc gặp gở ở London đầu năm 1983, ông Thiệu nói với tôi: “Tôi đã sống ở đây (London) 8 năm trong cay đắng… nhưng tôi đã học hỏi được rất nhiều, nhiều hơn là trong mười năm ở chức vụ lãnh đạo quốc gia, thật ra ngày đó mình đã không được “préparer” trong chức vụ đó”.

Muốn hay không, ông đã là một nhân chứng quan trọng vì đồng thời là một tác nhân. Giai đoạn ông lãnh đạo đất nước có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, có nghĩa là nhiều bí mật quốc gia đã không được chia sẻ, nhiều quyết định liên quan đến vận mệnh đất nước mà động cơ thực sự chưa bao giờ được tiết lộ. Giai đoạn của ông tuy ngắn nhưng là giai đoạn bi thảm nhất trong lịch sử dân tộc, với sự yểm trợ của cộng sản quốc tế và sự tham chiến của người Mỹ, chưa bao giờ những người Việt Nam lại chém giết nhau một cách tận tình như vậy.

Cuộc chiến tranh lạnh tuy đã chấm dứt nhưng vị trí địa lý chánh trị Việt Nam không thay đổi, vẫn là nơi tranh chấp giữa các siêu cường dưới hình thức này hay hình thức khác và những bài học lịch sử trong giai đoạn ông có một tầm mức quan trọng cho những thế hệ mai sau.

TPV: Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lãnh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải vì đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?

NVN: Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xã hội phân hóa, chiến tranh v.v… nhưng một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ.

Người Mỹ đã thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Domino. Người Mỹ đến Việt Nam không vì quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.

Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được xử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khi viện trợ của Nga–Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất thì viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ đươc xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm – thì kỹ nghệ quốc phòng của miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón… từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận. Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn xử dụng hữu hiệu cũng đòi hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ hóa.

Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đã đẩy một số quần chúng đi về phía cộng sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Hòa đã bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.

Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy thì sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, sự lảnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đã làm mất hậu thuẫn rộng rãi trong quần chúng.

Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính cách quyết định đã làm sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Sau thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền đã đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ còn tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ vì sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.

TPV: Ông có đồng ý rằng chế độ đệ I và đệ II Cộng hòa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đã được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đã góp phần quyết định?

NVN: Không ai phủ nhận điều đó.

Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư bản và cộng sản.

Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ.

Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dã man và tàn bạọ như thế nào thì tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ đã khiến cho một dân tộc vốn giàu lòng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đã chiến thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình – đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loại.


Nguyễn Văn Ngân
Nguồn: TPV
--------------------------------------------------------------------------------

Sau Hiệp Định Geneva 1954, người Pháp rút lui để lại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ vì chiến tranh – để chống lại cộng sản quốc tế và Bắc Việt, chúng ta chỉ còn tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ cùng với các điều kiện áp đặt, không còn một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và ông Thiệu đã lãnh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng chế độ dân chủ trên một xã hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ý niệm về dân chủ, tự do – không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc gia Việt Nam đã phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, trong cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản. Chế độ đệ I và đệ II Cộng Hòa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xã hội, kinh tế ngày đó đã đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á.

Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đã bị người Mỹ giết vì bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đã bị lôi kéo vào một cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết vì đã không làm chủ được số phận của mình và tất cả dân tộc Việt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi thân trong biển cả, đất nước đổ nát...

Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; tòa Đại sứ Mỹ thực tế là một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất trên thế giới; và ông Thiệu đã phải đối phó với một nghịch lý: trong khi khối cộng sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh thì người Mỹ thực hiện giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chinh trị trên sinh mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris. Trong cuộc chiến chống cộng và suốt thời gian lãnh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được xử dụng trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lý do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ quyết định sinh mạng của miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đã mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời.

Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe cho tôi xem thành phố London, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại London sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó: “kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…”. Lúc ông chết, ý nguyện của ông muốn hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không thì sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong lòng đất Mỹ.

Còn tiếp
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=2415

Aucun commentaire: